5Các sứ giả trở về với vua. Vua bảo họ: "Sao các ngươi lại trở về? " 6Họ đáp: "Một người đã lên gặp chúng tôi và nói với chúng tôi: Hãy đi về với ông vua đã sai các anh đi và thưa với vua: ĐỨC CHÚA phán thế này: Ở Ít-ra-en không có Thiên Chúa hay sao, mà ngươi lại sai sứ giả đi thỉnh ý Ba-an Dơ-vúp, thần của Éc-rôn? Vì thế, ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm, vì thế nào ngươi cũng chết." 7Vua hỏi họ: "Người đã lên gặp các ngươi và nói với các ngươi những lời đó, ăn mặc thế nào? " 8Họ trả lời: "Đó là một người mặc áo da lông, đóng khố da." Vua nói: "Đó là ông Ê-li-a người Tít-be! "
9Vua sai một sĩ quan chỉ huy năm mươi quân đem theo năm mươi quân của mình đến với ông Ê-li-a. Viên sĩ quan này đi lên với ông Ê-li-a đang ngồi trên đỉnh núi. Viên sĩ quan thưa ông Ê-li-a: "Hỡi người của Thiên Chúa, vua bảo: Xin mời ông xuống! " 10Ông Ê-li-a trả lời sĩ quan chỉ huy năm mươi quân: "Nếu ta là người của Thiên Chúa, thì chớ gì một ngọn lửa từ trời xuống thiêu đốt ngươi và năm mươi quân của ngươi! " Một ngọn lửa từ trời liền xuống thiêu đốt viên sĩ quan và năm mươi quân của ông. 11Vua lại sai một sĩ quan khác chỉ huy năm mươi quân đem năm mươi quân của mình đến với ông Ê-li-a. Viên sĩ quan đó lên tiếng nói: "Hỡi người của Thiên Chúa, vua nói thế này: Xin ông xuống mau! " 12Ông Ê-li-a trả lời họ: "Nếu ta là người của Thiên Chúa, thì chớ gì một ngọn lửa từ trời xuống thiêu đốt ngươi và năm mươi quân của ngươi! " Một ngọn lửa từ trời liền xuống thiêu đốt viên sĩ quan và năm mươi người của ông. 13Vua lại sai viên sĩ quan thứ ba chỉ huy năm mươi quân đem theo năm mươi quân của mình. Viên sĩ quan thứ ba đi lên, và khi đến nơi, thì quỳ gối trước mặt ông Ê-li-a và khẩn nài: "Hỡi người của Thiên Chúa, ước gì mạng tôi và mạng của năm mươi tôi tớ ngài đây được coi là quý trước mắt ngài! 14Một ngọn lửa đã từ trời xuống thiêu đốt hai sĩ quan trước, mỗi người cùng với năm mươi quân của họ. Nhưng bây giờ, ước gì mạng tôi được coi là quý trước mắt ngài! " 15Sứ giả của ĐỨC CHÚA nói với ông Ê-li-a: "Hãy xuống với người này, đừng sợ gì nó! " Ông trỗi dậy, cùng với viên sĩ quan xuống gặp vua. 16Ông Ê-li-a nói với vua: "ĐỨC CHÚA phán thế này: Vì ngươi đã sai sứ giả đi thỉnh ý Ba-an Dơ-vúp, thần của Éc-rôn, -ở Ít-ra-en không có Thiên Chúa hay sao, mà lại đi thỉnh lời sấm của nó? -, nên ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm, vì thế nào ngươi cũng chết! "
17Vua đã chết, như lời của ĐỨC CHÚA mà ông Ê-li-a đã truyền lại. Vì vua A-khát-gia không có con, nên ông Giô-ram lên ngôi kế vị, vào năm thứ hai triều vua Giô-ram, con ông Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa. 18Các truyện còn lại của vua A-khát-gia, những gì vua làm, đã chẳng được ghi trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao?
VI. TRUYỆN ÔNG Ê-LI-SA
1. NHỮNG BƯỚC ĐẦU
Ngôn sứ Ê-li-a được đem đi. Ông Ê-li-sa thay thế.
1Vào thời ĐỨC CHÚA đem ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc, ông Ê-li-a và ông Ê-li-sa rời Ghin-gan. 2Ông Ê-li-a nói với ông Ê-li-sa: "Xin anh ở lại đây, vì ĐỨC CHÚA sai thầy đến Bết Ên." Nhưng ông Ê-li-sa thưa: "Có ĐỨC CHÚA hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy! " Rồi các ông đi xuống Bết Ên. 3Các anh em ngôn sứ ở Bết Ên ra gặp ông Ê-li-sa và nói: "Ông có biết không, hôm nay ĐỨC CHÚA sẽ đem thầy của ông lên cao ngay trên đầu ông? " Ông nói: "Tôi cũng biết chứ, im đi! " 4Ông Ê-li-a bảo ông: "Này Ê-li-sa, xin anh ở lại đây, vì ĐỨC CHÚA sai thầy đi Giê-ri-khô." Nhưng ông Ê-li-sa thưa: "Có ĐỨC CHÚA hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy! " Và các ông đã đến Giê-ri-khô. 5Các anh em ngôn sứ ở Giê-ri-khô đến gần ông Ê-li-sa và nói: "Ông có biết không, hôm nay ĐỨC CHÚA sẽ đem thầy của ông lên cao, ngay trên đầu ông? " Ông nói: "Tôi cũng biết chứ, im đi! " 6Ông Ê-li-a bảo: "Xin anh ở lại đây, vì ĐỨC CHÚA sai thầy đến sông Gio-đan." Nhưng ông thưa: "Có ĐỨC CHÚA hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy! " Rồi cả hai ông cùng đi.7Năm mươi anh em ngôn sứ cũng đi, đứng ở đằng xa, phía trước hai ông, còn hai ông thì đứng bên bờ sông Gio-đan. 8Ông Ê-li-a lấy áo choàng của mình, cuộn lại mà đập xuống nước. Nước rẽ ra hai bên. Hai ông đã đi qua ráo chân. 9Vậy, khi đã đi qua, ông Ê-li-a nói với ông Ê-li-sa: "Anh cứ xin đi: thầy có thể làm gì cho anh trước khi thầy được đem đi, rời xa anh? " Ông Ê-li-sa nói: "Xin cho con được hai phần thần khí của thầy! " 10Ông Ê-li-a đáp: "Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được." 11Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra. Và ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc. 12Thấy thế, ông Ê-li-sa kêu lên: "Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của Ít-ra-en! " Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra làm hai mảnh. 13Ông lượm lấy áo choàng của ông Ê-li-a rơi xuống. Ông trở về và đứng bên bờ sông Gio-đan.
14Ông lấy áo choàng của ông Ê-li-a đã rơi xuống mà đập xuống nước và nói: "ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông Ê-li-a ở đâu? " Ông đập xuống nước, nước rẽ ra hai bên, và ông Ê-li-sa đi qua. 15Các anh em ngôn sứ Giê-ri-khô thấy ông ở đằng xa thì nói: "Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông Ê-li-sa." Họ đến đón ông và sụp xuống đất lạy ông. 16Họ thưa ông: "Tại đây có năm mươi người dũng cảm đang ở với các tôi tớ ngài. Xin cho phép họ đi tìm thầy của ngài. Có lẽ thần khí của ĐỨC CHÚA đã đem người đi, rồi thả xuống một ngọn núi hay một thung lũng nào đó." Nhưng ông nói: "Đừng sai ai đi cả! " 17Họ cứ một mực nài ép ông, nên ông bảo: "Thì cứ sai đi! " Họ sai năm mươi người đi kiếm suốt ba ngày, nhưng không tìm thấy ông Ê-li-a. 18Họ trở về với ông. Ông đang ở Giê-ri-khô, ông nói với họ: "Tôi đã chẳng bảo các anh là đừng đi đó sao? "
Hai phép lạ của ông Ê-li-sa
19Người trong thành nói với ông Ê-li-sa: "Như ngài thấy đó, địa thế của thành thì tốt, nhưng nước thì độc và xứ sở bị nạn vô sinh." 20Ông Ê-li-sa bảo: "Lấy cho tôi một cái tô mới và bỏ muối vào đó." Họ đi lấy cho ông. 21Ông đi ra suối nước, đổ muối xuống và nói: "ĐỨC CHÚA phán thế này: Ta làm cho nước hoá lành, và nước này sẽ không còn gây chết chóc và nạn vô sinh nữa." 22Và nước hoá lành cho đến ngày nay, theo lời ông Ê-li-sa đã nói.23Ông rời nơi đó lên Bết Ên. Và khi ông đi lên, thì dọc đường có những trẻ con từ thành đi ra, chúng nhạo ông và nói: "Lên đi, ông hói đầu ơi! Lên đi, ông hói đầu ơi! " 24Ông quay lại, và khi thấy chúng thì nguyền rủa chúng nhân danh ĐỨC CHÚA. Bấy giờ, có hai con gấu từ trong rừng đi ra và xé xác bốn mươi hai đứa trẻ. 25Từ nơi đó, ông đi tới núi Các-men, rồi trở lại Sa-ma-ri.
2. CUỘC CHIẾN CHỐNG MÔ-ÁP
Thời vua Giô-ram cai trị Ít-ra-en (852-841)
1Vua Giô-ram, con vua A-kháp, lên ngôi tại Sa-ma-ri cai trị Ít-ra-en, vào năm thứ mười tám triều vua Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa. Vua trị vì được mười hai năm. 2Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, nhưng không như cha như mẹ của vua, vì vua đã cất bỏ trụ đá thần Ba-an mà vua cha đã dựng. 3Tuy nhiên, vua vẫn bám lấy tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo; và vua không dứt ra được.Cuộc viễn chinh của Giu-đa và Ít-ra-en đánh Mô-áp4Mê-sa, vua Mô-áp, là người nuôi chiên cừu. Ông thường cống nộp cho vua Ít-ra-en một trăm ngàn con chiên và một trăm ngàn con cừu len. 5Nhưng sau khi vua A-kháp qua đời, thì vua Mô-áp nổi loạn chống lại vua Ít-ra-en.
6Ngày ấy, vua Giô-ram ra khỏi Sa-ma-ri và kiểm tra dân số toàn thể Ít-ra-en. 7Rồi vua đi, sai người đến nói với vua Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa: "Vua Mô-áp nổi loạn chống tôi. Ngài có cùng với tôi đi đánh Mô-áp không? " Vua Giơ-hô-sa-phát đáp: "Tôi sẽ lên. Tôi cũng làm như ngài, dân tôi cũng như dân ngài, ngựa của tôi cũng như ngựa của ngài." 8Rồi vua nói tiếp: "Chúng ta sẽ đi đường nào mà lên? " Vua Giô-ram trả lời: "Đường sa mạc Ê-đôm."
9Vua Ít-ra-en, vua Giu-đa và vua Ê-đôm lên đường. Họ đi vòng quanh bảy ngày đường; không còn nước cho quân lính và thú vật đi theo nữa. 10Vua Ít-ra-en mới nói: "Than ôi! ĐỨC CHÚA đã triệu tập ba vua chúng ta đây để nộp vào tay Mô-áp! " 11Vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ở đây không có một ngôn sứ nào của ĐỨC CHÚA có thể giúp chúng ta thỉnh ý Người sao? " Một trong những tôi tớ của vua Ít-ra-en trả lời: "Ở đây có ông Ê-li-sa, con ông Sa-phát, người đã đổ nước trên tay ông Ê-li-a." 12Vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ông ấy có lời của ĐỨC CHÚA." Vua Ít-ra-en, vua Giơ-hô-sa-phát và vua Ê-đôm đi xuống gặp ông. 13Ông Ê-li-sa nói với vua Ít-ra-en: "Chuyện đó can gì đến vua và tôi? Vua hãy đi gặp các ngôn sứ của vua cha, các ngôn sứ của thái hậu." Vua Ít-ra-en nói: "Không, vì ĐỨC CHÚA đã triệu tập ba vua chúng tôi đây để nộp vào tay Mô-áp." 14Ông Ê-li-sa nói: "Có ĐỨC CHÚA, Chúa Tể càn khôn, hằng sống, Đấng tôi phụng thờ, tôi xin thề: Nếu tôi không nể vua Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, thì tôi sẽ không để ý đến vua và cũng chẳng nhìn mặt vua. 15Bây giờ, hãy dẫn đến tôi một người gảy đàn." Người gảy đàn vừa đánh đàn, thì bàn tay ĐỨC CHÚA ở trên ông. 16Ông nói: "ĐỨC CHÚA phán thế này: Hãy đào trong khe này thật nhiều hố. 17Vì ĐỨC CHÚA phán thế này: Các ngươi không thấy có gió, các ngươi không thấy có mưa; nhưng khe này sẽ đầy nước, và các ngươi sẽ được uống, các ngươi, súc vật và lừa ngựa của các ngươi. 18Đối với ĐỨC CHÚA, đó còn là quá ít. Người sẽ nộp Mô-áp vào tay các ngươi. 19Các ngươi sẽ hạ mọi thành kiên cố, mọi thành quan trọng, sẽ chặt mọi cây cối tươi tốt, lấp mọi giếng nước và rải đá để tàn phá mọi ruộng đồng phì nhiêu." 20Quả thật, ban sáng, vào giờ dâng lễ tiến, thì nước từ phía Ê-đôm đến, và toàn xứ đều ngập nước.
21Khi nghe tin các vua lên đánh chúng, mọi người Mô-áp, những người đến tuổi mang vũ khí và cả những người đã quá tuổi đó, đều được gọi nhập ngũ và đóng ở biên giới. 22Sáng sớm họ thức dậy; Và khi mặt trời mọc lên, chiếu sáng trên mặt nước, người Mô-áp thấy nước đằng trước chúng đỏ như máu, 23thì nói: "Máu đó! Chắc chắn các vua đã đánh nhau, chém giết lẫn nhau. Bây giờ, hỡi Mô-áp, đi hôi của đi! "
24Chúng đến trại người Ít-ra-en. Nhưng người Ít-ra-en đã vùng dậy, đánh quân Mô-áp, khiến chúng phải tẩu thoát trước mặt họ. Họ tiến vào Mô-áp mà đánh. 25Họ phá huỷ các thành, mỗi người nhặt đá quăng xuống lấp đầy mọi đồng ruộng phì nhiêu; họ bịt mọi giếng nước và chặt mọi cây cối tốt tươi. Cuối cùng, ở Kia Kha-re-xét chỉ còn trơ lại một đống đá. Lính phóng đá bao vây thành đó và đánh phá. 26Khi vua Mô-áp thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, thì dẫn theo bảy trăm người mang kiếm, mở đường máu đi tới vua Ê-đôm. Nhưng chúng không làm nổi chuyện đó. 27Khi ấy, vua mới bắt con đầu lòng, là người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu. Một cơn thịnh nộ lớn giáng xuống Ít-ra-en. Quân Ít-ra-en nhổ trại, rút lui mà trở về xứ.
3. VÀI PHÉP LẠ CỦA ÔNG Ê-LI-SA
Dầu của bà goá
1Có người vợ của một trong những anh em ngôn sứ kêu cứu ông Ê-li-sa: "Tôi tớ ngài là chồng tôi đã chết. Và ngài biết là tôi tớ ngài kính sợ ĐỨC CHÚA. Nhưng chủ nợ đã đến bắt hai đứa con tôi làm nô lệ." 2Ông Ê-li-sa nói với bà: "Tôi có thể làm gì cho chị đây? Hãy cho tôi biết: trong nhà chị còn có gì không? " Bà thưa: "Trong nhà nữ tỳ của ngài chẳng còn gì cả, trừ một lọ dầu." 3Ông nói: "Chị hãy đi ra ngoài mượn bà con láng giềng các thứ bình, những bình rỗng, đừng có ít quá! 4Rồi chị trở về, chị và các con cái chị vào nhà đóng cửa lại. Chị sẽ đổ dầu vào tất cả các bình đó, bình nào đầy thì để riêng ra." 5Bà từ giã ông mà đi; bà và con cái bà vào nhà đóng cửa lại. Chúng đem bình đến cho bà, còn bà thì đổ vào. 6Khi các bình đã đầy, bà nói với con: "Đem bình nữa cho mẹ." Nhưng nó thưa: "Hết bình rồi." Dầu liền ngưng chảy. 7Bà đến trình cho người của Thiên Chúa biết. Ông nói: "Chị đi bán dầu ấy mà trả nợ; phần còn lại thì mẹ con dùng để sinh sống."Ông Ê-li-sa và mẹ con người phụ nữ Su-nêm
8Một hôm, ông Ê-li-sa đi qua Su-nêm. Ở đó có một phụ nữ giàu sang. Bà ta giữ ông lại dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào dùng bữa. 9Bà ấy nói với chồng: "Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. 10Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó." 11Một hôm, ông đến nơi ấy, ông lui vào phòng trên lầu và nghỉ ở đó. 12Ông nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông: "Đi gọi bà Su-nêm." Nó đi gọi bà và bà đến trước mặt nó. 13Ông Ê-li-sa bảo nó: "Hãy nói với bà ấy: Bà đã quá lo lắng bận rộn vì chúng tôi. Chúng tôi biết phải làm gì cho bà đây? Có cần chúng tôi phải nói một lời với đức vua hay với tướng chỉ huy quân đội cho bà không? " Bà trả lời: "Tôi sống yên hàn giữa dân tôi." 14Ông Ê-li-sa nói với tiểu đồng: "Nên làm gì cho bà ấy? " Giê-kha-di đáp: "Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà chồng thì đã già." 15Ông Ê-li-sa bảo: "Đi gọi bà ấy." Nó đi gọi bà, và bà ấy đến đứng ngoài cửa. 16Ông Ê-li-sa nói: "Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai." Bà mới nói: "Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ ngài! " 17Quả nhiên, bà ấy có thai, và năm sau, vào thời kỳ, vào độ mà ông Ê-li-sa đã nói, thì bà sinh con trai.18Đứa trẻ lớn lên. Một ngày kia, khi đi kiếm cha nó ở giữa những người thợ gặt, 19nó nói với cha: "Ôi, cái đầu con! Cái đầu con! " Người cha bảo anh đầy tớ: "Bồng nó về cho mẹ nó." 20Người tớ trai bồng nó, đem về cho bà mẹ. Đứa trẻ ngồi trên đầu gối bà đến trưa, rồi nó chết. 21Bà đem nó lên đặt trên giường dành cho người của Thiên Chúa, đóng cửa lại, để nó ở trong rồi đi ra. 22Bà đi gọi chồng và nói: "Xin ông sai đến tôi một anh đầy tớ và một con lừa cái. Tôi chạy đến người của Thiên Chúa, rồi sẽ về." 23Người chồng bảo: "Tại sao bà lại đi gặp ngài ngày hôm nay? Không phải là ngày đầu tháng, cũng chẳng phải là ngày sa-bát." Nhưng bà trả lời: "Ông cứ yên tâm! " 24Rồi bà cho thắng lừa và nói với anh đầy tớ: "Hãy đưa tôi đi và lên đường! Chỉ dừng xe lại khi tôi bảo." 25Bà lên đường và đi đến với người của Thiên Chúa ở núi Các-men. Vừa thấy bà đằng xa, người của Thiên Chúa nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông: "Kìa bà Su-nêm. 26Con hãy chạy ra đón và nói với bà ấy: "Bà có được mạnh khoẻ không? Ông nhà có được mạnh khoẻ không? Cậu bé có được mạnh khoẻ không? " Bà trả lời: "Vâng, mạnh khoẻ cả." 27Khi đến gần người của Thiên Chúa ở trên núi, bà ôm lấy chân ông. Giê-kha-di tiến tới, đẩy bà ra, nhưng người của Thiên Chúa bảo: "Để yên cho bà ấy, vì tâm hồn bà đang phải cay đắng. ĐỨC CHÚA đã giấu ta điều ấy, Người không cho ta biết." 28Khi ấy, bà nói: "Nào tôi có xin ngài cho tôi được đứa con đâu? Tôi đã chẳng nói: "Xin đừng đánh lừa tôi, đó sao? "
29Ông Ê-li-sa bảo Giê-kha-di: "Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại. Ngươi sẽ đặt gậy của ta trên mặt cậu bé." 30Mẹ cậu bé nói: "Có ĐỨC CHÚA hằng sống và có ngài đang sống đây, tôi xin thề sẽ không rời xa ngài." Ông trỗi dậy và đi theo bà. 31Giê-kha-di đã đi trước hai người và đặt gậy trên mặt cậu bé; nhưng không nghe thấy tiếng, không thấy động đậy. Anh ta quay lại đón ông Ê-li-sa và trình ông: "Cậu bé đã không thức dậy." 32Khi ông Ê-li-sa tới nhà thì cậu bé đã chết, nằm trên giường của ông. 33Ông đi vào chỗ cậu bé, đóng cửa lại, chỉ có hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với ĐỨC CHÚA. 34Ông lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt ông trên mắt nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó. Ông cứ nằm trên đứa trẻ, da thịt nó nóng lên. 35Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm trên nó; cậu bé hắt hơi đến bảy lần, và mở mắt ra. 36Ông Ê-li-sa gọi Giê-kha-di và bảo: "Đi gọi bà Su-nêm." Nó đi gọi bà; bà đến với ông, ông nói: "Bà hãy đem con đi! " 37Bà đi vào, quỳ dưới chân ông, rồi sụp xuống đất lạy ông. Sau đó, bà đem con đi và ra khỏi phòng.
Nồi cháo độc
38Ông Ê-li-sa trở về Ghin-gan, khi nạn đói đang xảy ra trong xứ. Lúc anh em ngôn sứ đang ngồi trước mặt ông, ông nói với tiểu đồng: "Bắc nồi lớn lên bếp và nấu cháo cho anh em ngôn sứ." 39Một người trong nhóm ra đồng hái rau, tìm thấy một thứ cây giống như nho dại, thì hái trái dưa đắng ấy, đầy một vạt áo, rồi về nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là thứ gì. 40Sau đó, họ múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ kêu lên: "Người của Thiên Chúa ơi, thần chết ở trong nồi! " Và họ không thể ăn được nữa. 41Ông Ê-li-sa bảo: "Đem bột đến đây! " Ông bỏ bột vào và bảo: "Múc ra cho người ta ăn." Trong nồi liền hết chất độc.Phép lạ hoá bánh ra nhiều42Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa: hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê-li-sa nói: "Phát cho người ta ăn." 43Nhưng tiểu đồng hỏi ông: "Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được? " Ông bảo: "Cứ phát cho người ta ăn! Vì ĐỨC CHÚA phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư." 44Tiểu đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời ĐỨC CHÚA phán.
Ông Na-a-man được chữa khỏi bệnh phung hủi
1Ông Na-a-man, tướng chỉ huy quân đội của vua A-ram, là người có thần thế và uy tín trước mặt chúa thượng của ông, vì ĐỨC CHÚA đã dùng ông mà ban chiến thắng cho A-ram. Nhưng ông lại mắc bệnh phung hủi. 2Khi những người A-ram đi càn quét, họ đã bắt được một cô bé từ đất Ít-ra-en đưa về. Nó vào giúp việc cho vợ ông Na-a-man. 3Nó nói với bà chủ: "Ôi, phải chi ông chủ con được giáp mặt vị ngôn sứ ở Sa-ma-ri, thì chắc ngôn sứ sẽ chữa ông khỏi bệnh phung hủi! " 4Ông Na-a-man đến tường trình với chúa thượng của ông: "Một thiếu nữ xuất thân từ đất Ít-ra-en đã nói thế này thế này." 5Vua A-ram bảo: "Ngươi cứ lên đường và trẩy đi. Ta sẽ gửi thư cho vua Ít-ra-en." Ông Na-a-man lên đường, mang theo ba trăm ký bạc, sáu mươi ký vàng và mười bộ quần áo để thay đổi. 6Ông trình thư lên vua Ít-ra-en. Thư viết: "Cùng với bức thư mà tôi gửi tới ngài đây, tôi sai Na-a-man, thuộc hạ của tôi, đến với ngài, để ngài chữa người này khỏi bệnh phung hủi." 7Vua Ít-ra-en đọc thư xong thì xé áo mình ra và nói: "Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền sinh tử, mà ông ấy lại sai người này đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phung hủi? Các ngươi phải biết, phải thấy rằng ông ấy muốn sinh sự với ta."8Vậy, khi ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, nghe biết là vua Ít-ra-en đã xé áo mình ra, thì sai người đến nói với vua: "Sao vua lại xé áo mình ra? Người ấy cứ đến với tôi, thì sẽ biết là có một ngôn sứ ở Ít-ra-en." 9Ông Na-a-man đi đến cùng với cả xe và ngựa. Ông đứng trước cửa nhà ông Ê-li-sa. 10Ông Ê-li-sa sai sứ giả ra nói với ông: "Ông hãy đi tắm bảy lần trong sông Gio-đan. Da thịt ông sẽ trở lại như trước, và ông sẽ được sạch." 11Ông Na-a-man nổi giận bỏ đi và nói: "Ta cứ nghĩ bụng là thế nào ông ấy cũng đích thân đi ra, rồi đứng mà cầu khẩn danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông ta. Ông ta sẽ quơ tay lên đúng chỗ phung hủi mà chữa khỏi. 12Nước các sông A-va-na và Pác-pa ở Đa-mát chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Ít-ra-en sao? Ta lại không thể tắm ở các sông ấy để được sạch hay sao? " Ông quay lưng lại và tức tối ra đi. 13Bấy giờ, các tôi tớ của ông đến gần và nói: "Cha ơi, giả như ngôn sứ bảo cha làm một điều gì khó, chẳng lẽ cha lại không làm? Phương chi ngôn sứ chỉ nói: Ông hãy đi tắm, thì sẽ được sạch! " 14Vậy ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.
15Cùng với đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông vào, đứng trước mặt ông ấy và nói: "Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây." 16Ông Ê-li-sa nói: "Có ĐỨC CHÚA hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả." Ông Na-a-man nài ép ông nhận, nhưng ông vẫn từ chối. 17Ông Na-a-man nói: "Nếu ngài từ chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài ĐỨC CHÚA. 18Nhưng xin ĐỨC CHÚA tha thứ điều này cho tôi tớ ngài: Khi ông chủ tôi vào điện của thần Rim-môn để sụp xuống lạy, và khi ông ấy vịn vào cánh tay tôi, thì tôi cũng phải sụp xuống lạy trong điện của thần Rim-môn cùng lúc với ông. Xin ĐỨC CHÚA tha thứ điều ấy cho tôi tớ ngài! " 19Ông Ê-li-sa bảo: "Ông đi bằng an! " và ông Na-a-man đi khỏi chỗ ông Ê-li-sa được một quãng đường.
20Khi đó, Giê-kha-di, tiểu đồng của ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, nghĩ bụng: "Chủ ta đã giữ gìn không nhận những gì ông Na-a-man, người A-ram, tự tay đem dâng. Có ĐỨC CHÚA hằng sống, ta sẽ chạy theo ông ấy để nhận được chút gì chứ! " 21Giê-kha-di liền đuổi theo ông Na-a-man. Khi thấy Giê-kha-di chạy theo mình, ông Na-a-man từ trên xe nhảy xuống gặp nó, và hỏi: "Mọi sự đều yên ổn chứ? " 22Nó trả lời: "Mọi sự đều yên ổn. Chủ tôi sai tôi đi nói với ông: "Vừa rồi có hai thanh niên thuộc nhóm các ngôn sứ đến với tôi từ vùng núi Ép-ra-im. Xin ông cho họ ba mươi ký bạc và hai bộ quần áo để thay đổi." 23Ông Na-a-man nói: "Anh vui lòng nhận lấy sáu mươi ký." Rồi ông ép nó nhận. Ông nhét sáu mươi ký bạc trong hai bị cùng với hai bộ quần áo để thay đổi, rồi đưa cho hai người tớ trai mang đi trước mặt nó. 24Khi tới Ô-phen, nó lấy những thứ đó từ tay họ, đem cất vào nhà, rồi từ giã những người ấy, và họ trẩy đi.
25Còn nó, nó vào hầu chủ. Ông Ê-li-sa hỏi: "Giê-kha-di, mày đi đâu về? " Nó đáp: "Tôi tớ ngài không có đi đâu cả." 26Ông Ê-li-sa bảo: "Trí ta đã chẳng ở đó khi có người xuống xe gặp mày sao? Giờ đây, mày đã nhận tiền bạc, mày có thể sắm quần áo, tậu vườn, vườn ô-liu và vườn nho, mua bò dê chiên cừu và tôi trai tớ gái. 27Nhưng bệnh phung hủi của ông Na-a-man sẽ mãi mãi bám lấy mày và dòng dõi mày." Giê-kha-di rời ông Ê-li-sa; nó mắc bệnh phung hủi, mốc thếch như tuyết.
Cái rìu đã mất lại tìm thấy
1Các anh em ngôn sứ nói với ông Ê-li-sa: "Thầy coi, nơi chúng tôi ngồi nghe thầy đây đã ra quá hẹp, so với số người chúng tôi. 2Vậy xin cho chúng tôi đi ra bờ sông Gio-đan; ở đó, mỗi người chúng tôi sẽ lấy một cái xà, rồi làm một nơi để ngồi nghe." Ông bảo: "Các anh cứ đi! " 3Một người trong nhóm nói: "Xin thầy vui lòng cùng đi với các tôi tớ thầy." Ông đáp: "Được, tôi sẽ đi", 4rồi ông cùng đi với họ. Tới sông Gio-đan, họ đốn cây. 5Khi một người trong nhóm đang hạ cây làm xà, thì lưỡi rìu bằng sắt văng xuống nước. Người ấy liền kêu lên: "Chết rồi, ngài ơi! Cái rìu này tôi mượn của người ta! " 6Người của Thiên Chúa hỏi: "Nó văng đi đâu? " Người ấy chỉ chỗ cho ông. Ông chặt một khúc gỗ, ném xuống đó và làm cho lưỡi rìu bằng sắt nổi lên. 7Ông bảo: "Vớt lên đi! " Người kia đưa tay ra cầm lấy.4. CHIẾN TRANH VỚI A-RAM
Ông Ê-li-sa tóm gọn một toán quân A-ram
8Hồi ấy, vua A-ram đang giao chiến với Ít-ra-en. Vua bàn với các thuộc hạ và bảo chúng: "Ta sẽ đặt trại quân chỗ này, chỗ nọ." 9Nhưng người của Thiên Chúa nhắn tin cho vua Ít-ra-en: "Xin ngài đề phòng, đừng đi qua chỗ ấy, vì quân A-ram đi xuống đó." 10Vua Ít-ra-en mới sai lính tới chỗ người của Thiên Chúa đã nói, đã báo cho biết; vua đề phòng, không phải chỉ một hay hai lần mà thôi.11Lòng vua A-ram rất nao núng vì chuyện này. Vua gọi các thuộc hạ lại và bảo: "Chẳng lẽ các ngươi không báo cho ta biết ai trong chúng ta đã bỏ theo vua Ít-ra-en sao? " 12Một người trong nhóm thuộc hạ đáp: "Thưa đức vua, chúa công tôi, chẳng có ai đâu! Chính ông Ê-li-sa, ngôn sứ của Ít-ra-en, đã cho vua Ít-ra-en biết những lời ngài nói trong phòng ngủ của ngài." 13Vua nói: "Đi coi xem ông ấy ở đâu! Ta sẽ sai người đi bắt." Người ta cho vua biết: "Ông ấy đang ở Đô-than." 14Vua liền phái tới đó một đạo quân lớn, có cả ngựa xe. Chúng đến nơi ban đêm và bao vây thành.
15Sáng hôm sau, người của Thiên Chúa dậy sớm và đi ra ngoài. Và kìa một toán quân có cả ngựa xe đang vây quanh thành. Người đầy tớ nói với ông: "Chết rồi, ngài ơi! Làm sao bây giờ? " 16Ông trả lời: "Đừng sợ, vì những người đi theo chúng ta thì đông hơn những người đi theo chúng." 17Ông Ê-li-sa cầu xin rằng: "Lạy ĐỨC CHÚA, xin mở mắt cho nó thấy! " ĐỨC CHÚA mở mắt người đầy tớ của ông và nó thấy núi đầy những ngựa và xe đỏ như lửa vây quanh ông Ê-li-sa.
18Khi quân A-ram kéo xuống phía ông Ê-li-sa, thì ông cầu xin ĐỨC CHÚA: "Xin Chúa đánh mờ mắt những quân này." Và ĐỨC CHÚA đã đánh mờ mắt chúng, theo lời ông Ê-li-sa xin. 19Khi đó, ông Ê-li-sa bảo chúng: "Đây không phải là đường, cũng không phải là thành. Các anh đi theo tôi, tôi sẽ dẫn các anh đến người các anh đang tìm kiếm." Và ông đã dẫn chúng tới Sa-ma-ri. 20Khi chúng vào Sa-ma-ri, ông Ê-li-sa lại nói: "Lạy ĐỨC CHÚA, xin mở mắt cho những người này, cho chúng thấy được." ĐỨC CHÚA đã mở mắt chúng và chúng thấy là mình đang ở giữa thành Sa-ma-ri!
21Thấy chúng, vua Ít-ra-en nói với ông Ê-li-sa: "Thưa cha, có phải giết chúng không? " 22Ông đáp: "Đừng giết! Thử hỏi những kẻ vua đã dùng gươm dùng nỏ bắt làm tù binh, thì vua có giết không? Vua hãy đem bánh và nước tới cho chúng ăn uống, rồi để chúng trở về với chủ của chúng! " 23Vua dọn tiệc lớn đãi chúng. Khi chúng ăn uống xong, vua cho chúng đi và chúng trở về với chủ của chúng. Những toán quân A-ram không còn xâm nhập Ít-ra-en nữa.
Nạn đói trong thành Sa-ma-ri bị bao vây
24Sau đó, Ben Ha-đát, vua A-ram, tập họp tất cả quân đội lại, tiến lên vây thành Sa-ma-ri. 25Ở Sa-ma-ri, đang có một nạn đói lớn; thành bị địch bao vây gắt gao đến nỗi một đầu lừa lên tới hai mươi bốn lượng bạc, và một dúm hành dại cũng lên tới mười lăm chỉ bạc.26Khi vua Ít-ra-en đang đi lại trên tường thành, thì một phụ nữ kêu với vua rằng: "Thưa đức vua, chúa thượng tôi, xin cứu tôi với! " 27Vua trả lời: "Nếu ĐỨC CHÚA không cứu ngươi, thì ta biết lấy gì để cứu ngươi? Chẳng lẽ lấy sân lúa hay bồn đạp nho? " 28Rồi vua hỏi chị ta: "Chuyện gì vậy? " Chị ấy thưa: "Mụ này đã nói với tôi: "Đưa con chị đây, chúng ta ăn thịt nó hôm nay; ngày mai, chúng ta sẽ ăn thịt con tôi! 29Chúng tôi đã nấu chín con tôi và ăn thịt nó. Hôm sau, tôi bảo mụ: "Đưa con chị đây, chúng ta ăn thịt nó! Nhưng mụ đã giấu con đi." 30Vừa nghe người phụ nữ nói những lời ấy, vua liền xé áo mình ra. Vì vua đang đi lại trên tường thành, nên dân thấy được là bên trong vua mặc áo lót bằng vải thô. 31Vua nói: "Xin Thiên Chúa phạt ta thế này và thêm thế kia nữa, nếu hôm nay đầu của Ê-li-sa, con Sa-phát, còn nằm trên cổ của hắn! "
Ông Ê-li-sa báo tin cơn thử thách sắp chấm dứt
32Ông Ê-li-sa đang ngồi trong nhà và có những kỳ mục ngồi với ông, thì vua sai người đến với ông. Nhưng trước khi sứ giả đến nơi, ông Ê-li-sa nói với các kỳ mục: "Các ông thấy không: Kẻ sát nhân ấy sai người đến lấy đầu tôi! Vậy thế này: Khi nào sứ giả đến, thì đóng cửa lại, lấy cửa đẩy nó ra. Nhưng tiếng chân chủ nó chẳng đang theo sau nó đấy ư? " 33Ông còn đang nói, thì vua đã xuống gặp ông và bảo: "Tai hoạ này do ĐỨC CHÚA giáng xuống, thế thì tôi còn biết trông đợi gì nữa nơi ĐỨC CHÚA? "Trại quân A-ram bỏ trống
3Có bốn người phung hủi đang ở lối vào cửa thành. Họ nói với nhau: "Sao chúng ta cứ ở lại đây mà chờ chết? 4Nếu chúng ta quyết định vào thành, thì chúng ta sẽ chết trong thành, vì ở đó đang có nạn đói; nếu chúng ta ở lại đây, thì chúng ta cũng sẽ chết. Vậy bây giờ, đến đây, chúng ta cùng trốn sang trại quân A-ram. Nếu chúng để chúng ta sống, thì chúng ta sẽ sống; mà nếu chúng giết chúng ta, thì chúng ta sẽ chết." 5Lúc chập tối, những người phung hủi lên đường đi đến trại quân A-ram. Nhưng khi tới đầu trại quân A-ram, thì họ chẳng thấy có ai! 6Vì ĐỨC CHÚA đã cho tiếng xe, tiếng ngựa, tiếng một đạo binh lớn vang lên trong trại quân A-ram. Chúng bảo nhau: "Này vua Ít-ra-en đã thuê các vua Khết và các vua Ai-cập vào đánh chúng ta." 7Vậy chúng đã lên đường, chạy trốn lúc chập tối, bỏ lại lều, ngựa, lừa; tóm lại, chúng để cả trại y nguyên mà chạy thục mạng. 8Khi tới đầu trại, những người phung hủi kia vào một lều; họ ăn uống, rồi mang bạc, vàng và quần áo đi giấu. Họ trở lại, vào một lều khác, rồi mang đồ vật trong đó đi giấu.Hết cuộc bao vây và hết nạn đói
9Bấy giờ, họ nói với nhau: "Chúng ta làm thế thì không phải. Hôm nay là ngày mang lại tin vui. Nếu chúng ta làm thinh và chần chừ mãi cho tới khi trời sáng, thì chúng ta sẽ mắc tội. Bây giờ, đến đây, chúng ta cùng đi báo tin cho đền vua." 10Họ vào gọi những người canh cửa thành và báo tin: "Chúng tôi đã vào trại quân A-ram. Chúng tôi chẳng thấy có ai, cũng không nghe tiếng người; chỉ có ngựa còn cột đó, lừa còn cột đó; các lều còn y nguyên." 11Những người canh cửa thành hô lên và báo tin cho đền vua ở bên trong.12Đang đêm, vua trỗi dậy, nói với các thuộc hạ: "Để ta giải thích cho các ngươi nghe những gì quân A-ram làm để hại chúng ta. Chúng biết chúng ta đang bị đói, nên đã ra khỏi trại để nấp ở ngoài đồng, nghĩ bụng rằng: "Họ sẽ ra khỏi thành; chúng ta sẽ bắt sống họ, rồi vào thành"." 13Một người trong các thuộc hạ vua trả lời: "Xin để người ta lấy năm con ngựa trong số những con sống sót còn lại đây, -nếu không, những con ấy cũng sẽ cùng chung số phận với toàn đám dân Ít-ra-en sống sót trong thành đang chờ chết-; chúng ta cứ gửi đi xem sao." 14Người ta lấy hai cỗ xe, rồi vua sai người đuổi theo quân A-ram, và nói: "Hãy đi, xem thế nào! " 15Họ đã đuổi theo chúng cho đến sông Gio-đan. Trên tất cả quãng đường ấy đều la liệt quần áo và vật dụng quân A-ram đã liệng xuống trong lúc vội vã. Các sứ giả trở về trình lại các sự việc cho vua.
16Dân đi ra hôi của trong trại quân A-ram. Quả thật, theo như lời của ĐỨC CHÚA, cứ ba chỉ bạc sẽ mua được một thúng tinh bột lúa miến; cứ ba chỉ bạc sẽ mua được hai thúng lúa mạch. 17Vua đã đặt một viên giám mã canh cửa thành, người đó là người đã đỡ tay vua. Dân chúng giẫm lên người đó ở cửa thành, làm cho người đó chết, đúng y như lời người của Thiên Chúa đã nói khi vua xuống gặp ông. 18Quả thật, khi người của Thiên Chúa nói với vua: "Ngày mai, cũng vào giờ này, tại cửa thành Sa-ma-ri, ba chỉ bạc sẽ mua được hai thúng lúa mạch, ba chỉ bạc sẽ mua được một thúng tinh bột lúa miến", 19thì viên giám mã trả lời cho người của Thiên Chúa: "Cho dù ĐỨC CHÚA có mở cống trên trời, điều đó liệu có xảy ra không? " Ông Ê-li-sa nói: "Ông sẽ thấy tận mắt, nhưng ông sẽ không được ăn! " 20Điều đó đã xảy ra cho viên giám mã: dân chúng giẫm lên ông ở cửa thành, làm ông chết.
Kết thúc truyện người phụ nữ Su-nêm
1Ông Ê-li-sa nói với người phụ nữ có đứa con trai ông đã làm cho sống lại: "Bà hãy trỗi dậy, lên đường, đem theo gia đình của bà. Hãy ra nước ngoài, ở tạm nơi nào ở được, vì ĐỨC CHÚA đã khiến nạn đói xảy ra, hơn nữa nạn đói còn xảy ra trong xứ suốt bảy năm." 2Người phụ nữ trỗi dậy và làm theo lời người của Thiên Chúa dạy. Bà và gia đình bà đã đi và ở tạm bên xứ người Phi-li-tinh bảy năm. 3Sau bảy năm, người phụ nữ bỏ xứ người Phi-li-tinh trở về. Bà đi cầu cứu với vua về chuyện nhà cửa ruộng đất của bà.4Vua nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa: "Hãy kể cho ta nghe tất cả những chuyện lớn lao ông Ê-li-sa đã làm." 5Giê-kha-di đang kể cho vua nghe chuyện ông Ê-li-sa đã làm cho người chết sống lại thế nào, thì người phụ nữ có đứa con trai ông đã làm sống lại, đến cầu cứu với vua về chuyện nhà cửa ruộng đất của bà. Giê-kha-di liền trình vua: "Thưa đức vua, chúa thượng của con, đây là người phụ nữ, và đây là người con trai mà ông Ê-li-sa đã làm cho sống lại." 6Vua hỏi người phụ nữ, và bà kể hết cho vua nghe. Vua chỉ định một viên thái giám lo việc cho bà và nói: "Ngươi giúp bà này lấy lại tất cả tài sản của bà, cũng như mọi lợi tức ruộng đất, kể từ ngày bà rời xứ cho đến nay."
Ông Ê-li-sa và ông Kha-da-ên thành Đa-mát
7Ông Ê-li-sa vào Đa-mát. Vua A-ram là Ben Ha-đát đang bị bệnh. Người ta báo tin cho vua: "Người của Thiên Chúa đã đến tận đây." 8Vua nói với ông Kha-da-ên: "Ngươi hãy mang quà và đi gặp người của Thiên Chúa. Ngươi sẽ nhờ ông thỉnh ý ĐỨC CHÚA và thưa Người: "Con có được khỏi bệnh này không? "9Ông Kha-da-ên đi gặp ông Ê-li-sa, đem theo tất cả những gì tốt nhất ở Đa-mát làm quà, chất trên lưng bốn mươi con lạc đà. Khi tới nơi, ông Kha-da-ên đứng trước ông Ê-li-sa và nói: "Con của ngài là Ben Ha-đát, vua A-ram, đã sai tôi đến thưa ngài: "Tôi có được khỏi bệnh này không? " 10Ông Ê-li-sa nói: "Ông đi nói với vua: "Chắc chắn ngài sẽ sống! Nhưng ĐỨC CHÚA đã cho tôi thấy chắc chắn vua sẽ chết." 11Người của Thiên Chúa nghiêm nét mặt, nhìn chằm chằm khiến ông Kha-da-ên phát ngượng. Ông Ê-li-sa khóc. 12Ông Kha-da-ên mới hỏi: "Tại sao ngài lại khóc? " Ông đáp: "Vì tôi biết tai hoạ ông sẽ gây cho con cái Ít-ra-en. Ông sẽ phóng hoả đốt các thành trì, sẽ dùng gươm chém giết các trai tráng, ném trẻ con xuống đất cho chết và mổ bụng đàn bà có thai." 13Ông Kha-da-ên nói: "Tôi tớ ngài, con chó này, là chi mà làm được điều quá thể như vậy? " Ông Ê-li-sa đáp: "ĐỨC CHÚA đã cho tôi thấy ông làm vua A-ram." 14Ông Kha-da-ên từ giã ông Ê-li-sa và lại về với chủ mình, vua hỏi: "Ông Ê-li-sa đã nói gì với ngươi? " Ông Kha-da-ên đáp: "Ông ấy nói với tôi là chắc chắn ngài sẽ sống." 15Hôm sau, ông Kha-da-ên đã lấy chăn, nhúng nước, rồi phủ lên mặt vua. Vua đã chết, và ông Kha-da-ên lên ngôi kế vị.
Vua Giô-ram cai trị Giu-đa (848-841) (2 Sb 21: 1-20 )
16Năm thứ năm triều Giô-ram, con vua A-kháp làm vua Ít-ra-en, ông Giơ-hô-ram, con vua Giơ-hô-sa-phát lên làm vua Giu-đa. 17Ông lên ngôi vua khi được ba mươi hai tuổi, và trị vì ở Giê-ru-sa-lem tám năm. 18Vua đi theo đường lối các vua Ít-ra-en, hành động như nhà A-kháp, vì vua đã lấy một người con gái của vua A-kháp làm vợ. Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA. 19Nhưng vì vua Đa-vít, tôi trung của người, ĐỨC CHÚA không muốn huỷ diệt Giu-đa, theo lời Người đã phán với vua, là sẽ ban cho vua và con cháu vua một ngọn đèn luôn cháy sáng mọi ngày.20Dưới thời của vua, Ê-đôm thoát ách thống trị của Giu-đa và đặt một vua lên cai trị mình. 21Vua Giô-ram sang Xa-ia cùng với toàn bộ chiến xa. Ban đêm, vua trỗi dậy, đánh quân Ê-đôm đang bao vây vua và những người chỉ huy chiến xa. Dân chạy trốn về lều của họ. 22Như thế, Ê-đôm đã thoát ách thống trị của Giu-đa cho đến ngày nay. Rồi Líp-na cũng đã thoát ách thống trị vào lúc ấy.
23Những truyện còn lại của vua Giô-ram và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 24Vua Giô-ram đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất với các ngài trong Thành Đa-vít. Ông A-khát-gia-hu, con của vua, lên ngôi kế vị vua cha.
841) (2 Sb 22: 1-6)
25Năm thứ mười hai triều Giô-ram, con vua A-kháp, làm vua Ít-ra-en, ông A-khát-gia-hu, con vua Giơ-hô-ram, lên làm vua Giu-đa. 26A-khát-gia-hu lên ngôi vua khi được hai mươi hai tuổi, và trị vì ở Giê-ru-sa-lem được một năm. Thân mẫu vua là bà A-than-gia-hu, ái nữ của Om-ri, vua Ít-ra-en. 27Vua đi theo đường lối nhà A-kháp, đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA như nhà A-kháp, vì có họ hàng với nhà A-kháp.
28Cùng với vua Giô-ram, con vua A-kháp, vua đi đánh vua A-ram là Kha-da-ên, ở Ra-mốt Ga-la-át. Nhưng quân A-ram đã đánh vua Giô-ram bị thương. 29Vua Giô-ram đã quay về Gít-rơ-en để chữa trị, vì các thương tích quân A-ram đã gây cho vua ở Ra-ma, trong lúc giao chiến với vua A-ram là Kha-da-ên. Vua Giu-đa là A-khát-gia-hu, con vua Giơ-hô-ram, đã xuống Gít-rơ-en thăm vua Giô-ram, con vua A-kháp, vì vua này đang bị bệnh.
5. TRUYỆN VUA GIÊ-HU
Xức dầu phong vương cho ông Giê-hu
1Ngôn sứ Ê-li-sa gọi một người trong nhóm anh em ngôn sứ và bảo: "Hãy thắt lưng và cầm theo lọ dầu này, mà đi tới Ra-mốt Ga-la-át. 2Khi đến nơi, anh hãy tìm cách nhận mặt ông Giê-hu, con ông Giơ-hô-sa-phát, cháu ông Nim-si. Anh đến và mời ông ấy đứng lên, ra khỏi chỗ các anh em đồng đội, rồi dẫn vào một phòng kín đáo. 3Sau đó, anh lấy lọ dầu mà đổ trên đầu ông và nói: "ĐỨC CHÚA phán thế này: Ta xức dầu phong ngươi làm vua Ít-ra-en. Rồi anh mở cửa, trốn ngay đi, đừng chậm trễ."4Người thanh niên, một ngôn sứ trẻ, trẩy đi Ra-mốt Ga-la-át. 5Khi anh đến nơi, thì các tướng lãnh quân đội đang ngồi với nhau. Người thanh niên nói: "Thưa tướng quân, tôi có điều phải nói với ngài." Ông Giê-hu hỏi: "Với ai trong chúng tôi? " Anh trả lời: "Thưa, với tướng quân." 6Khi đó, ông Giê-hu đứng lên, đi vào trong nhà. Người thanh niên đổ dầu lên đầu ông và nói: "ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: "Ta xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en là dân của ĐỨC CHÚA. 7Ngươi sẽ đánh phạt nhà A-kháp, chủ ngươi, để ta đòi I-de-ven đền nợ máu các tôi tớ Ta là các ngôn sứ và mọi tôi tớ của ĐỨC CHÚA. 8Toàn thể nhà A-kháp sẽ bị diệt vong. Ta sẽ diệt trừ mọi đàn ông con trai của nhà A-kháp, nô lệ cũng như tự do ở Ít-ra-en. 9Ta sẽ xử với nhà A-kháp như với nhà Gia-róp-am, con Nơ-vát, như với nhà Ba-sa, con A-khi-gia. 10Còn I-de-ven, thì chó sẽ ăn thịt nó ngoài đồng Gít-rơ-en, mà không có người chôn cất." Sau đó, người thanh niên mở cửa, chạy trốn.
Ông Giê-hu được tôn làm vua
11Ông Giê-hu ra gặp các thuộc hạ của chủ mình. Họ hỏi ông: "Bình an chứ? Tại sao tên khùng ấy lại đến gặp ông? " Ông Giê-hu đáp: "Các ông biết con người ấy và bài ca lải nhải của y mà! " 12Nhưng họ bảo: "Ông nói dối! Kể lại cho chúng tôi đi! " Ông nói: "Y nói với tôi thế này thế này; y bảo ĐỨC CHÚA phán rằng: Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua Ít-ra-en." 13Họ vội vàng lấy áo choàng trải lên đầu thềm cấp, dưới chân ông. Họ thổi tù và, rồi hô lên: "Giê-hu làm vua! "Ông Giê-hu chuẩn bị tiếm quyền
14Ông Giê-hu, con ông Giơ-hô-sa-phát, cháu ông Nim-si, âm mưu chống lại vua Giô-ram. Lúc đó, vua Giô-ram và toàn thể Ít-ra-en đang bảo vệ Ra-mốt Ga-la-át chống lại vua A-ram là Kha-da-ên. 15Nhưng vua Giơ-hô-ram đã về điều trị ở Gít-rơ-en, vì các thương tích quân A-ram đã gây cho vua, trong lúc vua giao chiến với vua A-ram là Kha-da-ên. Ông Giê-hu nói: "Nếu thực sự các ông đồng lòng với tôi, thì đừng ai thoát khỏi thành mà đi báo tin cho Gít-rơ-en." 16Ông Giê-hu lên xe đi Gít-rơ-en, vì vua Giô-ram đang liệt giường ở đó; vua Giu-đa là A-khát-gia đã xuống thăm vua Giô-ram.17Người lính canh đứng trên tháp Gít-rơ-en nhìn thấy đoàn quân của ông Giê-hu đang đến, thì nói: "Tôi nhìn thấy một đoàn quân." Vua Giơ-hô-ram bảo: "Hãy chọn một kỵ binh, sai đi gặp họ và hỏi: Bình an chứ? " 18Người kỵ binh đi gặp ông Giê-hu và nói: "Vua phán thế này: Bình an chứ? " Ông Giê-hu trả lời: "Bình an hay không, việc gì đến ngươi! Lui ra đằng sau ta! " Người lính canh lại báo tin: "Sứ giả đã tới chỗ họ, nhưng không trở về." 19Vua lại sai người kỵ binh thứ hai, người ấy đến với họ và nói: "Vua phán thế này: Bình an chứ? " Ông Giê-hu đáp: "Bình an hay không, việc gì đến ngươi! Lui ra đằng sau ta! " 20Người lính canh lại báo tin: "Sứ giả đã tới chỗ họ, nhưng không trở về. Kiểu đánh xe thì giống như kiểu của ông Giê-hu, con ông Nim-si: Ông ấy đánh xe như điên! " 21Vua Giơ-hô-ram bảo: "Thắng xe đi! " Và người ta thắng xe. Vua Ít-ra-en là Giơ-hô-ram và vua Giu-đa là A-khát-gia-hu đi ra, mỗi người ngồi trên xe mình. Hai vua đi ra gặp ông Giê-hu và thấy ông ở thửa đất ông Na-vốt, người Gít-rơ-en.
Vua Giơ-hô-ram bị sát hại
22Vậy vua Giơ-hô-ram vừa thấy ông Giê-hu, thì nói: "Ông Giê-hu, bình an chứ? " Ông Giê-hu trả lời: "Bình an thế nào được, bao lâu I-de-ven, mẹ ông, còn dở những trò dâm đãng và làm bao nhiêu chuyện phù phép như thế! " 23Vua Giơ-hô-ram liền cho quay xe lại và chạy trốn. Vua nói với vua A-khát-gia-hu: "Phản loạn, ông A-khát-gia ơi! " 24Nhưng ông Giê-hu, đang cầm sẵn cung trong tay, bắn trúng khoảng giữa hai vai vua Giơ-hô-ram; mũi tên xuyên qua tim vua Giơ-hô-ram mà đi ra, khiến vua gục ngã trong xe. 25Ông Giê-hu bảo viên sĩ quan Bít-ca: "Lôi nó ra, ném vào thửa đất ông Na-vốt, người Gít-rơ-en. Anh còn nhớ chứ: Khi tôi và anh cưỡi ngựa song song tháp tùng cha nó là A-kháp, ĐỨC CHÚA đã tuyên sấm về nó như thế này: 26Hôm qua, Ta đã chẳng thấy máu của Na-vốt, và của con cái Na-vốt sao? -Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Ta sẽ bắt ngươi phải trả nợ máu như thế, ngay tại thửa đất ấy- Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA! Vậy bây giờ, lôi nó ra, ném vào thửa đất ấy, theo lời ĐỨC CHÚA! "Vua A-khát-gia bị sát hại
27Thấy thế, vua Giu-đa là A-khát-gia chạy trốn theo đường Bết Ha Gan. Ông Giê-hu đuổi theo và nói: "Giết cả nó nữa! " Và người ta đã đánh vua bị thương ngay trên xe, ở dốc Gua gần Gíp-lơ-am. Vua chạy trốn vào Mơ-ghít-đô và chết ở đó. 28Các thuộc hạ của vua đưa vua lên xe chở về Giê-ru-sa-lem, và chôn cất vua trong mồ bên cạnh tổ tiên vua trong Thành vua Đa-vít. 29Vua A-khát-gia đã lên ngôi cai trị Giu-đa vào năm thứ mười một triều vua Giô-ram, con vua A-kháp.Bà I-de-ven bị sát hại
30Ông Giê-hu vào Gít-rơ-en. Nghe tin đó, bà I-de-ven đánh phấn tô mắt và trang điểm mái tóc, rồi từ cửa sổ nhìn xuống. 31Khi ông Giê-hu đi vào cửa thành, bà nói: "Bình an chứ, Dim-ri, tên giết chủ? " 32Ông Giê-hu ngẩng mặt lên phía cửa sổ và nói: "Có ai theo ta không, có ai không? " Có hai hoặc ba viên thái giám nhìn xuống phía ông. 33Ông nói: "Quẳng nó xuống! " Họ quẳng bà xuống; máu của bà bắn vào tường và vào các con ngựa. Ông đạp chân lên bà, 34rồi đi vào mà ăn uống. Sau đó, ông nói: "Các anh lo vụ con khốn kiếp ấy đi và chôn cất nó, vì nó là công chúa." 35Họ đi chôn bà, nhưng chỉ tìm thấy cái sọ, hai chân và hai bàn tay của bà. 36Họ về báo tin cho ông Giê-hu. Ông nói: "Đây là lời ĐỨC CHÚA đã dùng tôi trung Người là ông Ê-li-a, người Tít-be, mà phán: "Trong thửa đất Gít-rơ-en, chó sẽ ăn thịt I-de-ven. 37Xác I-de-ven sẽ ra như phân trên mặt đồng ruộng, trong thửa đất Gít-rơ-en, khiến người ta không thể nói được: Đó là I-de-ven! "Hoàng tộc Ít-ra en bị sát hại
1Vua A-kháp có bảy mươi người con ở Sa-ma-ri. Ông Giê-hu viết thư gửi đến Sa-ma-ri cho các thủ lãnh của Gít-rơ-en, các kỳ mục và các tổng trấn của vua A-kháp. Thư viết: 2"Vì các ông có các hoàng tử của chủ các ông ủng hộ, vì các ông có nào xe, nào ngựa, nào thành trì kiên cố, nào khí giới, cho nên khi thư này đến tay các ông, 3các ông hãy xem ai là người ưu tú và xứng đáng nhất trong số các hoàng tử của chủ các ông, thì đặt người đó lên ngôi kế vị vua cha. Các ông hãy đến chiến đấu cho nhà của chủ các ông." 4Họ hết sức kinh hãi, họ nói với nhau: "Hai vua còn không đứng vững trước mặt ông ấy, thì làm sao chúng ta đứng vững được? " 5Quan đại nội thị thần, ông thị trưởng, các kỳ mục và tổng trấn liền sai người đến nói với ông Giê-hu: "Chúng tôi là thuộc hạ của ông. Tất cả những gì ông nói với chúng tôi, chúng tôi sẽ làm. Chúng tôi sẽ không tôn ai lên làm vua cả. Ông cứ làm những gì ông thấy nên làm."6Ông Giê-hu viết cho họ bức thư thứ hai, trong đó ông nói: "Nếu các ông ủng hộ tôi và nghe lời tôi kêu gọi, thì hãy lấy đầu các người con của chủ các ông, rồi đến gặp tôi ngày mai vào giờ này, ở Gít-rơ-en." Bảy mươi người con của vua đang ở tại nhà các quan lớn trong thành. Các quan lớn này có nhiệm vụ dưỡng dục họ. 7Vậy, thư ấy vừa đến nơi, các quan lớn liền bắt bảy mươi người con của vua, cắt cổ, rồi bỏ đầu vào giỏ mà gửi cho ông Giê-hu ở Gít-rơ-en.
8Sứ giả đến báo tin cho ông: "Họ đã mang đầu các con vua tới rồi." Ông bảo: "Hãy chất làm hai đống nơi cửa thành cho đến sáng." 9Sáng hôm sau, ông ra ngoài, đứng nói với toàn dân: "Các ngươi đều vô can! Chính tôi đã âm mưu hại chủ của tôi và đã giết ông ấy! Nhưng ai đã hạ sát tất cả những người này? 10Vậy các người hãy biết rằng không có lời nào của ĐỨC CHÚA, không có lời nào của ĐỨC CHÚA chống lại nhà A-kháp mà lại ra vô hiệu: ĐỨC CHÚA thực hiện những gì Người đã dùng ông Ê-li-a, tôi trung của Người, mà phán." 11Ông Giê-hu hạ sát tất cả những người còn sót lại của nhà A-kháp ở Gít-rơ-en, mọi quan lớn, những người quen biết và tư tế của vua; không để một mạng nào sống sót.
Các ông hoàng Giu-đa bị hạ sát
12Rồi ông Giê-hu lên đường đi Sa-ma-ri. Trên đường đi, lúc ở Bết E-két Ha-rô-im, 13ông gặp các anh em của ông A-khát-gia-hu, vua Giu-đa, thì hỏi: "Các ông là ai? " Họ đáp: "Chúng tôi là anh em của vua A-khát-gia-hu. Chúng tôi xuống hỏi thăm các hoàng tử và các con bà hoàng thái hậu." 14Ông nói: "Bắt sống lấy chúng! " Người ta bắt sống họ và cắt cổ ở bể nước Bết E-két, tất cả là bốn mươi hai người, không sót một ai.Ông Giê-hu và ông Giơ-hô-na-đáp
15Ông rời đó mà đi và gặp ông Giơ-hô-na-đáp, con ông Rê-kháp, ra đón ông. Ông chào và nói: "Ông có thực lòng với tôi như tôi thực lòng với ông không? " Ông Giơ-hô-na-đáp nói: "Có" Ông Giê-hu nói: "Nếu có, thì hãy bắt tay tôi." Ông Giơ-hô-na-đáp liền bắt tay ông Giê-hu. Ông này đưa ông lên xe, cho ngồi bên cạnh. 16Ông Giê-hu nói: "Hãy đi với tôi và chứng kiến lòng nhiệt thành của tôi đối với ĐỨC CHÚA! " Rồi ông đưa ông ấy lên xe. 17Vào Sa-ma-ri, ông hạ sát tất cả những người còn lại của nhà A-kháp ở Sa-ma-ri, ông tiêu diệt hết, như lời ĐỨC CHÚA đã phán với ông Ê-li-a.Sát hại các tín đồ thần Ba-an và phá huỷ đền thờ
18Ông Giê-hu tập họp toàn dân lại và nói với họ: "A-kháp phụng sự thần Ba-an còn ít, chứ Giê-hu đây sẽ phụng sự người nhiều. 19Vậy bây giờ, hãy triệu tập lại đây cho tôi tất cả các ngôn sứ của thần Ba-an, mọi tín đồ và tư tế của thần, đừng có ai vắng mặt, vì tôi sẽ dâng một hy lễ lớn kính thần Ba-an. Ai vắng mặt, sẽ không được sống." Ông Giê-hu lập mưu diệt trừ những kẻ phụng sự thần Ba-an. 20Ông Giê-hu nói: "Hãy triệu tập một buổi họp long trọng kính thần Ba-an." Và người ta đã triệu tập buổi họp đó. 21Ông Giê-hu sai người đi khắp Ít-ra-en. Mọi tín đồ thần Ba-an đều đến, chẳng còn ai mà lại không đến. Họ vào đền Ba-an. Đền này chỗ nào cũng chật ních người. 22Ông Giê-hu bảo người phụ trách phòng lễ phục: "Đem lễ phục ra, phát cho mọi người phụng sự thần Ba-an." Người ấy đem lễ phục ra cho họ. 23Ông Giê-hu cùng với ông Giơ-hô-na-đáp, con ông Rê-kháp, vào đền Ba-an, ông nói với những người phụng sự thần Ba-an: "Hãy lục soát xem: đừng để những người phụng sự ĐỨC CHÚA có mặt ở đây với các người; chỉ để những người phụng sự Ba-an mà thôi." 24Rồi người ta vào dâng hy lễ và lễ toàn thiêu.25Vậy, khi lễ toàn thiêu đã hoàn tất, ông Giê-hu bảo các thị vệ và sĩ quan: "Vào giết chúng đi! Đừng để cho ai ra ngoài! " Các thị vệ và sĩ quan dùng lưỡi gươm mà giết chúng, quăng xác đi. Rồi họ vào tận cung thánh của đền Ba-an; 26họ lôi trụ thờ của đền Ba-an ra mà đốt đi. 27Họ phá huỷ trụ đá kính thần Ba-an, phá huỷ đền Ba-an, biến thành nhà tiêu cho đến ngày nay.
Ông Giê-hu làm vua Ít-ra-en (841-814)
28Như thế, vua Giê-hu làm cho thần Ba-an biến khỏi Ít-ra-en. 29Tuy nhiên, vua Giê-hu không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo: đó là thờ những con bê bằng vàng ở Bết Ên và ở Đan. 30ĐỨC CHÚA phán với vua Giê-hu: "Vì ngươi đã làm đúng những điều Ta coi là ngay thẳng, và ngươi đã xử với nhà A-kháp y như lòng Ta muốn, thì con cháu ngươi sẽ ngự trên ngai cai trị Ít-ra-en cho đến đời thứ bốn." 31Nhưng vua Giê-hu đã không hết lòng hết dạ chú tâm đi theo lề luật ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en: vua đã không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.32Trong những ngày ấy, ĐỨC CHÚA bắt đầu cắt xén lãnh thổ Ít-ra-en. Ông Kha-da-ên đánh bại họ trên toàn lãnh thổ Ít-ra-en, 33từ sông Gio-đan đến phía mặt trời mọc, toàn miền Ga-la-át, những vùng thuộc các chi tộc Gát, Rưu-vên và Mơ-na-se, từ A-rô-e trên bờ suối Ác-nôn, miền Ga-la-át và Ba-san.
34Những truyện còn lại của vua Giê-hu, mọi việc vua làm, cũng như mọi chiến công của vua, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 35Vua Giê-hu nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất ở Sa-ma-ri. Con vua là Giơ-hô-a-khát đã lên ngôi kế vị vua cha. 36Thời gian vua Giê-hu cai trị Ít-ra-en ở Sa-ma-ri là hai mươi tám năm.
6. TỪ TRIỀU A-THAN-GIA ĐẾN KHI ÔNG Ê-LI-SA QUA ĐỜI
Truyện bà A-than-gia (841-835) (2 Sb 22:10-23:21)
1Bà A-than-gia, thân mẫu vua A-khát-gia-hu, thấy con mình đã chết, thì đứng lên tiêu diệt tất cả hoàng tộc. 2Nhưng bà Giơ-hô-se-va, ái nữ vua Giô-ram và là chị của vua A-khát-gia-hu, đã ẵm Giô-át, con vua A-khát-gia-hu, lén đưa cậu ra khỏi số các hoàng tử sẽ bị sát hại, giấu trong phòng ngủ cùng với người vú nuôi. Như thế, người ta đã giấu được cậu bé khuất mắt bà A-than-gia, và cậu không bị giết. 3Cậu Giô-át ở lại với bà Giơ-hô-se-va trong Nhà ĐỨC CHÚA, lẩn trốn ở đó sáu năm, suốt thời bà A-than-gia cai trị xứ sở.4Năm thứ bảy, ông Giơ-hô-gia-đa sai người đi mời các vị chỉ huy một trăm quân thuộc đạo binh Ca-ri và thuộc đoàn thị vệ. Ông cho họ vào trong Nhà ĐỨC CHÚA với ông. Ông kết ước với họ, bắt họ tuyên thệ trong Nhà ĐỨC CHÚA, và cho họ được thấy hoàng tử. 5Ông truyền lệnh cho họ như sau: "Đây là điều các ông phải làm: Một phần ba các ông, những người đang phiên trực ngày sa-bát, sẽ canh giữ đền vua, 6một phần ba sẽ đứng ở cửa Xua, và một phần ba ở cửa phía sau đoàn thị vệ. Các ông sẽ luân phiên nhau canh giữ đền vua. 7Hai đội khác của các ông, những người hết phiên trực ngày sa-bát, sẽ canh giữ Nhà ĐỨC CHÚA. 8Các ông sẽ đứng chung quanh vua, ai nấy đều cầm khí giới trong tay. Kẻ nào xâm phạm hàng ngũ các ông, thì sẽ bị xử tử. Khi vua đi ra đi vào, các ông luôn phải ở bên cạnh vua."
9Các vị chỉ huy một trăm quân làm đúng mọi điều tư tế Giơ-hô-gia-đa đã truyền. Mỗi vị chỉ huy đem theo người của họ, những người đang phiên trực ngày sa-bát, cùng với những người hết phiên trực ngày sa-bát. Họ đến với tư tế Giơ-hô-gia-đa. 10Tư tế trao cho các vị chỉ huy trăm quân, giáo và thuẫn của vua Đa-vít để trong Nhà ĐỨC CHÚA. 11Các thị vệ ai nấy đều cầm khí giới trong tay, đứng dàn từ phía nam đến phía bắc Nhà ĐỨC CHÚA, trước bàn thờ và trước Nhà ĐỨC CHÚA cốt để bao quanh vua. 12Ông Giơ-hô-gia-đa rước hoàng tử ra, đội vương miện và trao cuộn Chứng Ước. Người ta phong vương và xức dầu cho hoàng tử, rồi vỗ tay hô lên: "Vạn tuế đức vua! "
13Khi bà A-than-gia nghe tiếng dân chúng la, bà đi về phía họ đang ở trong Nhà ĐỨC CHÚA. 14Bà nhìn lên, thì kìa vua đứng trên bệ cao theo nghi lễ thường dùng, các vị chỉ huy và các người thổi kèn ở bên cạnh vua. Toàn dân trong xứ hân hoan reo hò giữa tiếng kèn trỗi vang. Bà A-than-gia liền xé áo mình ra và kêu lên: "Phản bội! Phản bội! " 15Tư tế Giơ-hô-gia-đa truyền lệnh cho các vị chỉ huy một trăm quân đứng đầu toán binh, ông bảo họ: "Lôi nó ra khỏi hàng quân! Ai theo nó, thì lấy gươm chém chết! " Tư tế nói: "Nó không được chết trong Nhà ĐỨC CHÚA! " 16Họ liền túm lấy bà. Và khi bà đi qua lối Cửa Ngựa để tới đền vua; thì họ giết bà ở đó.
17Ông Giơ-hô-gia-đa lập giao ước giữa ĐỨC CHÚA, vua và dân, nhờ đó dân trở thành dân của ĐỨC CHÚA. Ông cũng lập giao ước giữa vua và dân. 18Rồi toàn dân trong xứ kéo tới đền Ba-an mà phá huỷ các bàn thờ và tượng thần. Còn Mát-tan, tư tế của thần Ba-an, thì họ giết ngay trước các bàn thờ.
19Rồi ông đem theo các vị chỉ huy một trăm quân, quân Ca-ri, các thị vệ và toàn dân trong xứ. Họ rước vua từ Nhà ĐỨC CHÚA xuống, sau đó đi qua Cửa Các Thị Vệ mà tới đền vua. Vua Giô-át ngự lên ngai vua. 20Toàn dân trong xứ thì vui mừng, còn thành vẫn không động tĩnh. Về phần bà A-than-gia, họ đã lấy gươm giết chết trong đền vua.
Vua Giô-át cai trị Giu-đa (835-796) (2 Sb 24:1-16)
1Giô-át lên làm vua khi được bảy tuổi. 2Năm thứ bảy triều vua Giê-hu, vua Giô-át lên ngôi và đã trị vì ở Giê-ru-sa-lem bốn mươi năm. Thân mẫu vua là bà Xíp-gia, người Bơ-e Se-va. 3Suốt cả đời, vua Giô-át đã làm điều ngay chính trước mắt ĐỨC CHÚA, vì vua đã được tư tế Giơ-hô-gia-đa dạy dỗ. 4Tuy nhiên, các tế đàn ở nơi cao không bị phá huỷ; dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt hương trên các nơi cao đó.5Vua Giô-át nói với các tư tế: "Tất cả số bạc nộp thuế cho Nhà ĐỨC CHÚA, số bạc mỗi người phải dâng, và tất cả số bạc mỗi người tự ý dâng cho Nhà ĐỨC CHÚA, 6mỗi tư tế sẽ nhận từ những người mình quen biết, và các tư tế sẽ sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà ĐỨC CHÚA, ở bất cứ nơi nào thấy hư hại." 7Đến năm thứ hai mươi ba đời vua Giô-át, các tư tế vẫn không sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà ĐỨC CHÚA. 8Vua Giô-át mới triệu tập tư tế Giơ-hô-gia-đa và các tư tế khác, rồi nói với họ: "Sao các ông lại không sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà ĐỨC CHÚA? Vậy từ nay, các ông đừng nhận bạc từ những người quen biết nữa, nhưng hãy trao lại để sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà ĐỨC CHÚA." 9Các tư tế bằng lòng không nhận bạc của dân và khỏi phải lo sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà ĐỨC CHÚA.
10Tư tế Giơ-hô-gia-đa lấy một cái hòm, khoét lỗ trên nắp và đặt hòm đó bên cạnh trụ đá, phía bên phải cửa vào Nhà ĐỨC CHÚA. Các tư tế canh ngưỡng cửa bỏ vào hòm tất cả số bạc người ta dâng vào Nhà ĐỨC CHÚA. 11Khi nào các ông thấy có nhiều bạc trong hòm, thì viên thư ký của vua đi lên cùng với vị thượng tế. Người ta đúc thành thoi, rồi đếm số thoi bạc có trong Nhà ĐỨC CHÚA. 12Sau khi kiểm lại số bạc, người ta trao cho những người lo công việc sửa chữa, những người phụ trách Nhà ĐỨC CHÚA. Những người này chi bạc cho các thợ mộc, các người thợ làm việc tại nhà ĐỨC CHÚA, 13cho các thợ nề và thợ đá; họ cũng chi bạc để mua gỗ và đá đẽo, để sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà ĐỨC CHÚA; tóm lại, họ chi bạc cho mọi phí tổn liên quan đến việc sửa chữa Nhà ĐỨC CHÚA. 14Nhưng người ta không lấy bạc dâng vào Nhà ĐỨC CHÚA để làm chậu bạc, dao, bình rảy, kèn, hay bất cứ đồ vật nào bằng vàng, bằng bạc dùng trong Nhà ĐỨC CHÚA. 15Người ta trao số bạc ấy cho những người lo công việc sửa chữa, và họ dùng để sửa chữa Nhà ĐỨC CHÚA. 16Những người nhận bạc cứ trả cho các người lo công việc sửa chữa, mà không ai đòi họ phải tính sổ, vì họ hành động liêm chính. 17Còn số bạc người ta xin lễ đền tội và lễ tạ tội, thì không nộp vào Nhà ĐỨC CHÚA: số bạc ấy thuộc về các tư tế.
18Bấy giờ, vua A-ram là Kha-da-ên tiến quân đánh thành Gát và chiếm được thành này. Sau đó, vua Kha-da-ên định tiến đánh Giê-ru-sa-lem. 19Vua Giu-đa là Giô-át lấy mọi đồ vật thánh mà các vua Giu-đa tổ tiên mình là Giơ-hô-sa-phát, Giơ-hô-ram và A-khát-gia-hu, đã dâng cúng, cũng như các đồ vật mà chính vua đã dâng cúng, và tất cả vàng có trong kho Nhà ĐỨC CHÚA và trong đền vua. Vua gửi tất cả những thứ đó cho vua A-ram là Kha-da-ên, và vua này rời khỏi Giê-ru-sa-lem.
20Những truyện còn lại của vua Giô-át và tất cả những gì vua làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 21Các thuộc hạ của vua Giô-át đứng lên, âm mưu chống lại vua và hạ sát vua ở Bết Mi-lô, khi vua xuống Xi-la. 22Các thuộc hạ của vua là Giô-da-vát, con bà Sim-át, và Giơ-hô-da-vát, con ông Sô-me, hạ sát vua, và vua đã chết. Người ta chôn cất vua bên cạnh tổ tiên vua trong Thành Đa-vít. Con vua là A-mát-gia lên ngôi kế vị vua cha.
Vua Giơ-hô-a-khát cai trị Ít-ra-en (814-798)
1Năm thứ hai mươi ba triều vua Giô-át, con vua A-khát-gia-hu, vua Giu-đa, ông Giơ-hô-a-khát, con vua Giê-hu, lên làm vua ở Sa-ma-ri, trị vì Ít-ra-en được mười bảy năm. 2Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, đã bắt chước vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, phạm thứ tội trước kia vua Gia-róp-am, đã lôi kéo Ít-ra-en phạm theo; và vua không dứt ra được.3ĐỨC CHÚA đã nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en. Người nộp họ vào tay vua Kha-da-ên, vua A-ram, và vua Ben Ha-đát, con vua Kha-da-ên, trong suốt triều đại hai vua này. 4Vua Giơ-hô-a-khát cố làm cho nét mặt ĐỨC CHÚA dịu lại. Và ĐỨC CHÚA nhận lời vua, vì Người đã thấy cảnh Ít-ra-en bị vua A-ram áp bức. 5ĐỨC CHÚA ban cho Ít-ra-en một vị cứu tinh giải thoát họ khỏi ách đô hộ của A-ram. Con cái Ít-ra-en lại được ở trong lều trại của họ như trước. 6Nhưng họ không dứt bỏ các tội nhà Gia-róp-am đã lôi kéo họ phạm theo. Họ cứ đi theo đường tội lỗi đó. Ngay cả cột thờ vẫn còn đứng sừng sững ở Sa-ma-ri. 7ĐỨC CHÚA chỉ để lại cho vua Giơ-hô-a-khát năm mươi kỵ binh, mười xe trận, và mười ngàn bộ binh, bởi vì vua A-ram đã tiêu diệt quân Ít-ra-en và nghiền nát họ ra như tro bụi người ta chà đạp.
8Những truyện còn lại của vua Giơ-hô-a-khát và mọi việc vua làm, cũng như các chiến công của vua, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 9Vua Giơ-hô-a-khát đã nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất ở Sa-ma-ri. Con vua là Giô-át lên ngôi kế vị vua cha.
Vua Giô-át cai trị Ít-ra-en (798-783)
10Năm thứ ba mươi bảy triều vua Giô-át, vua Giu-đa, con vua Giơ-hô-a-khát là Giô-át lên làm vua ở Sa-ma-ri, trị vì Ít-ra-en được mười sáu năm. 11Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA. Vua không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo. Vua cứ đi theo đường tội lỗi đó.12Các truyện còn lại của vua Giô-át và tất cả mọi việc vua làm, cũng như chiến công của vua trong cuộc giao chiến với vua Giu-đa là A-mát-gia, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 13Vua Giô-át đã an nghỉ với tổ tiên, và vua Gia-róp-am lên ngôi. Vua Giô-át được chôn cất ở Sa-ma-ri bên cạnh các vua Ít-ra-en.Ngôn sứ Ê-li-sa qua đời
14Ông Ê-li-sa lâm bệnh. Cơn bệnh sẽ làm cho ông chết. Vua Ít-ra-en là Giô-át xuống gặp ông, áp sát mặt vào mặt ông mà khóc. Vua nói: "Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của Ít-ra-en! " 15Ông Ê-li-sa bảo: "Vua cầm lấy cung tên! " Vua liền cầm lấy cung tên. 16Ông Ê-li-sa nói với vua Ít-ra-en: "Vua giương cung lên! " Vua liền giương cung. Ông Ê-li-sa đặt tay lên tay vua 17và nói: "Vua mở cửa sổ về hướng đông", và vua mở cửa sổ. Ông Ê-li-sa bảo: "Vua bắn đi! " và vua bắn. Ông Ê-li-sa lại bảo: "Mũi tên chiến thắng của ĐỨC CHÚA! Mũi tên chiến thắng A-ram! Vua sẽ đánh A-ram ở A-phếch cho tới mức tận diệt chúng."
18Ông Ê-li-sa nói: "Vua cầm lấy tên", Và vua đã cầm lấy tên. Ông Ê-li-sa lại bảo vua Ít-ra-en: "Vua đập xuống đất! ", và vua đã đập xuống ba lần, rồi ngưng. 19Người của Thiên Chúa nổi giận với vua, ông nói: "Đáng lẽ phải đập năm sáu lần, thì bấy giờ vua mới đánh A-ram cho tới mức tận diệt chúng. Nhưng bây giờ, vua chỉ đánh được A-ram ba lần thôi."
20Ông Ê-li-sa qua đời và người ta đã chôn cất ông. Hàng năm, các toán quân Mô-áp xâm nhập xứ sở. 21Vậy, có lần người ta đang đem một người chết đi chôn, thì thấy một toán quân của bọn đó, họ liền vất người chết vào mộ ông Ê-li-sa, rồi bỏ đi. Người chết vừa đụng phải hài cốt của ông Ê-li-sa thì sống lại và đứng thẳng dậy.
Vua Giô-át chiến thắng quân A-ram
22Suốt triều vua Giơ-hô-a-khát, vua A-ram là Kha-da-ên đã áp bức người Ít-ra-en. 23Nhưng ĐỨC CHÚA tỏ lòng nhân từ và chạnh lòng thương đoái nhìn họ, vì Người đã lập giao ước với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Người không muốn diệt trừ họ, và cho đến nay vẫn không xua đuổi họ cho khuất nhan Người. 24Vua A-ram là Kha-da-ên qua đời, và con vua là Ben Ha-đát lên ngôi kế vị vua cha. 25Vua Giô-át, con vua Giơ-hô-a-khát, lấy lại được những thành mà vua Kha-da-ên trong một cuộc chiến, đã chiếm được của vua Giơ-hô-a-khát, cha vua Giô-át. Những thành này khi đó nằm trong tay vua Ben Ha-đát, con vua kha-da-ên. Vua Giô-át đã đánh bại vua Ben Ha-đát ba lần và thu hồi được các thành của Ít-ra-en.VII. HAI VƯƠNG QUỐC CHO TỚI NGÀY SA-MA-RI THẤT THỦ
Vua A-mát-gia-hu cai trị Giu-đa (796-781) (2 Sb 25:1-28)
1Năm thứ hai triều vua Giô-át, con vua Giơ-hô-a-khát, vua Ít-ra-en, thì con vua Giô-át, vua Giu-đa, là A-mát-gia-hu, lên làm vua. 2Khi lên ngôi, vua được hai mươi lăm tuổi và trị vì tại Giê-ru-sa-lem hai mươi chín năm. Thân mẫu của vua là bà Giơ-hô-át-đan người Giê-ru-sa-lem. 3Vua đã điều ngay chính trước mắt ĐỨC CHÚA, tuy không bằng vua Đa-vít, tổ tiên vua. Trong mọi sự, vua đã làm như vua cha là Giô-át. 4Tuy nhiên, các tế đàn ở nơi cao không bị phá huỷ; dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt hương trên các nơi cao đó.5Vậy khi đã nắm vững vương quyền trong tay, vua A-mát-gia-hu hạ sát những thuộc hạ đã hạ sát vua cha. 6Nhưng vua không xử tử con cái những kẻ sát nhân ấy, như đã chép trong sách Luật Mô-sê, chiếu theo lệnh ĐỨC CHÚA truyền rằng: "Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử về tội của mình."
7Chính vua đã hạ sát mười ngàn quân Ê-đôm tại thung lũng Muối, và trong cuộc chiến vua đã chiếm được thành luỹ Tảng Đá, mà vua đặt tên cho là Gióc-thơ-ên; tên này vẫn tồn tại đến ngày nay.
8Khi ấy, vua A-mát-gia sai sứ giả đến vua Giô-át con vua Giơ-hô-a-khát, cháu vua Ít-ra-en là Giê-hu, và nói: "Nào đến đây, ta đọ sức với nhau! " 9Vua Ít-ra-en là Giô-át mới sai người đến nói với vua A-mát-gia-hu, vua Giu-đa: "Cỏ gai trên núi Li-băng sai người đến nói với cây bá hương Li-băng: "Xin gả con gái của ngài cho con trai tôi. Nhưng một con dã thú Li-băng đi qua đã đạp lên cỏ gai. 10Vì đã đánh bại Ê-đôm, nên ông lên mặt. Ông cứ vênh vang mà ở nhà! Chứ sao ông lại muốn khiêu chiến, để rồi bị ngã gục cùng với Giu-đa? "
11Nhưng vua A-mát-gia-hu không chịu nghe. Bấy giờ, vua Ít-ra-en là Giô-át mới tiến lên; vua Giô-át và vua Giu-đa là A-mát-gia-hu đọ sức với nhau ở Bết Se-mét thuộc Giu-đa. 12Giu-đa bị Ít-ra-en đánh bại; quân Giu-đa chạy trốn, ai về lều nấy. 13Còn vua Giu-đa là A-mát-gia-hu, con vua Giô-át, cháu vua A-khát-gia-hu, thì bị vua Ít-ra-en là Giô-át bắt ở Bết Se-mét, và điệu về Giê-ru-sa-lem. Vua đập phá tường thành Giê-ru-sa-lem, tạo ra một chỗ hổng dài hai trăm thước, từ Cửa Ép-ra-im đến Cửa Góc thành. 14Sau đó, vua lấy tất cả vàng bạc cùng mọi đồ vật có trong Nhà ĐỨC CHÚA và trong các kho của đền vua, bắt các con tin, rồi trở về Sa-ma-ri.
15Các truyện còn lại của vua Giô-át, những gì vua làm, cũng như chiến công của vua trong cuộc giao chiến với vua Giu-đa là A-mát-gia-hu, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 16Vua Giô-át đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất ở Sa-ma-ri bên cạnh các vua Ít-ra-en. Con vua là Gia-róp-am lên ngôi kế vị.
17Vua A-mát-gia-hu, con vua Giô-át, vua Giu-đa, còn sống mười lăm năm nữa sau khi vua Giô-át, con vua Giơ-hô-a-khát, vua Ít-ra-en, qua đời.
18Các truyện còn lại của vua A-mát-gia-hu đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 19Người ta âm mưu hại vua ở Giê-ru-sa-lem, nên vua chạy trốn về hướng La-khít, nhưng người ta sai người đuổi theo vua đến tận La-khít và giết vua ở đó. 20Người ta cho ngựa chở vua về Giê-ru-sa-lem và chôn cất vua ở đó, bên cạnh tổ tiên vua trong Thành vua Đa-vít. 21Toàn dân Giu-đa đặt A-dác-gia mới mười sáu tuổi lên ngôi kế vị vua cha là A-mát-gia-hu. 22Chính vua đã tái thiết Ê-lát và trả lại cho Giu-đa, sau khi vua A-mát-gia-hu an nghỉ bên cạnh tổ tiên.
Vua Gia-róp-am II cai trị Ít-ra-en (783-743);
23Năm thứ mười lăm triều vua A-mát-gia-hu, con vua Giô-át, vua Giu-đa, con vua Giô-át, vua Ít-ra-en, là Gia-róp-am lên làm vua, và trị vì bốn mươi mốt năm ở Sa-ma-ri. 24Vua đã làm sự dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, đã không dứt bỏ mọi tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.25Chính vua đã tái lập biên giới Ít-ra-en từ Cửa Ải Kha-mát cho đến biển A-ra-va, như lời ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đã dùng tôi trung của Người là ngôn sứ Giô-na, con ông A-mít-tai, quê ở Gát Khê-phe, mà phán. 26Vì ĐỨC CHÚA đã nhìn thấy cảnh bần cùng của Ít-ra-en phản nghịch; chẳng có một ai, nô lệ hay tự do, đến cứu giúp Ít-ra-en. 27ĐỨC CHÚA đã không nói là sẽ xoá tên Ít-ra-en không còn dấu vết trong thiên hạ, nên Người đã cứu họ nhờ tay vua Gia-róp-am, con vua Giô-át.
28Các truyện còn lại của vua Gia-róp-am và mọi việc vua làm, cũng như chiến công nhờ đó vua đánh chiếm và đem Đa-mát cùng Kha-mát về lại cho Ít-ra-en, những truyện đó đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 29Vua Gia-róp-am đã nằm xuống với tổ tiên là các vua Ít-ra-en. Con vua là Dơ-khác-gia lên ngôi kế vị vua cha.
Vua A-dác-gia cai trị Giu-đa (781-740) (2 Sb 26:1-23)
1Năm thứ hai mươi bảy triều Gia-róp-am, vua Ít-ra-en, con vua A-mát-gia, vua Giu-đa, là A-dác-gia lên làm vua. 2Ông lên ngôi vua khi được mười sáu tuổi, và trị vì năm mươi hai năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Giơ-khôn-gia-hu, người Giê-ru-sa-lem. 3Vua đã làm điều ngay chính trước mắt ĐỨC CHÚA, hoàn toàn đúng như vua cha là A-mát-gia-hu đã làm. 4Tuy nhiên, các tế đàn ở nơi cao đã không bị phá huỷ, dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt hương trên các nơi cao đó.5ĐỨC CHÚA đánh phạt vua; vua mắc bệnh phung hủi cho đến ngày qua đời, và sống cô lập trong một căn nhà. Chính ông Giô-tham, con vua, làm đại nội thị thần và cai trị dân trong xứ.
6Các truyện còn lại của vua A-dác-gia-hu và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 7Vua A-dác-gia đã nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất bên cạnh tổ tiên trong Thành vua Đa-vít. Con vua là Giô-tham lên ngôi kế vị vua cha.
8Năm thứ ba mươi tám triều vua A-dác-gia-hu, vua Giu-đa, con vua Gia-róp-am là Dơ-khác-gia lên làm vua Ít-ra-en và trị vì sáu tháng ở Sa-ma-ri. 9Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA như tổ tiên vua. Vua đã không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo. 10Ông Sa-lum, con ông Gia-vết, âm mưu hại vua. Ông đã đánh chết vua trước mặt dân, rồi lên ngôi thay vua. 11Các truyện còn lại của vua Dơ-khác-gia đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 12ĐỨC CHÚA đã phán với vua Giê-hu rằng: "Con cháu ngươi sẽ ngự trên ngai cai trị Ít-ra-en cho đến đời thứ bốn"; lời ấy đã ứng nghiệm.
743);
13Con ông Gia-vết là Sa-lum lên làm vua năm thứ ba mươi chín triều vua Út-di-gia, vua Giu-đa. Vua trị vì được một tháng ở Sa-ma-ri.
14Ông Mơ-na-khêm, con ông Ga-đi, đi lên từ Tia-xa và tiến vào Sa-ma-ri. Tại Sa-ma-ri, ông đánh chết vua Sa-lum, con ông Gia-vết, và lên làm vua thay vua ấy.
15Những truyện còn lại của vua Sa-lum và cuộc âm mưu vua đã chủ xướng, những sự việc ấy đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 16Bấy giờ, vua Mơ-na-khêm đánh phạt Táp-pu-ác, mọi người ở trong đó cũng như lãnh thổ của thành bắt đầu từ Tia-xa, vì người trong thành đã không mở cửa cho vua; vua đã mổ bụng tất cả phụ nữ có thai.
Vua Mơ-na-khêm cai trị Ít-ra-en (743-738)
17Năm thứ ba mươi chín triều vua A-dác-gia, vua Giu-đa, con ông Ga-đi là Mơ-na-khêm lên làm vua cai trị Ít-ra-en mười năm, ở Sa-ma-ri. 18Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA; vua không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.19vua Át-sua là Pun xâm nhập xứ sở, và vua Mơ-na-khêm nộp cho vua Pun ba mươi ngàn ký bạc để vua này nâng đỡ và củng cố vương quyền vua đang nắm trong tay. 20Vua Mơ-na-khêm thu bạc ấy của Ít-ra-en, của mọi phú hào, để nộp cho vua Át-sua: mỗi người mười lăm lượng bạc. Vì thế, vua Át-sua đã trở về nước, không ở lại trong xứ.
21Các truyện còn lại của vua Mơ-na-khêm, và mọi việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 22Vua Mơ-na-khêm đã nằm xuống với tổ tiên. Con vua là Pơ-các-gia lên ngôi kế vị vua cha.
Vua Pơ-các-gia cai trị Ít-ra-en (738-737)
23Năm thứ năm mươi triều vua A-dác-gia, vua Giu-đa, con vua Mơ-na-khêm là Pơ-các-gia lên làm vua cai trị Ít-ra-en hai năm, ở Sa-ma-ri. 24Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, vua không dứt bỏ những tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.25Giám mã của vua là ông Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, âm mưu chống lại vua và hạ sát vua ở Sa-ma-ri, trong tháp chính của đền vua... Có năm mươi người dân Ga-la-át cùng theo ông. Ông giết vua và lên ngôi thay thế.
26Các truyện còn lại của vua Pơ-các-gia, và mọi việc vua làm, đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en.
Vua Pe-các cai trị Ít-ra-en (737-732)
27Năm thứ năm mươi hai triều vua A-dác-gia, vua Giu-đa, con ông Rơ-man-gia-hu là Pe-các lên làm vua cai trị Ít-ra-en hai mươi năm, ở Sa-ma-ri. 28Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, vua không dứt bỏ những tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.29Trong thời gian vua Pe-các, vua Ít-ra-en, vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe đến xâm chiếm I-giôn, A-vên Bết Ma-a-kha, Gia-nô-ác, Ke-đét, Kha-xo, miền Ga-la-át và Ga-li-lê, toàn xứ Náp-ta-li, rồi đày dân sang Át-sua. 30Ông Hô-sê, con ông Ê-la, âm mưu chống lại vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, đánh chết vua và lên ngôi thay thế, vào năm thứ hai mươi triều vua Giô-tham, con vua Út-di-gia.
31Các truyện còn lại của vua Pe-các, và mọi việc vua làm, đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en.
Vua Giô-tham cai trị Giu-đa (740-736) (2 Sb 27:1-9)
32Năm thứ hai triều Pe-các, vua Ít-ra-en, con ông Rơ-man-gia-hu, thì con vua Út-di-gia-hu, vua Giu-đa, là Giô-tham lên làm vua. 33Ông lên ngôi vua khi được hai mươi lăm tuổi, và trị vì mười sáu năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Giơ-ru-sa, con gái ông Xa-đốc. 34Vua đã làm điều ngay chính trước mắt ĐỨC CHÚA, đúng như vua cha là Út-di-gia-hu đã làm. 35Tuy nhiên, các tế đàn ở nơi cao không bị phá huỷ; dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt hương trên các nơi cao đó.Chính vua đã xây Cửa Trên của Nhà ĐỨC CHÚA.
36Các truyện còn lại của vua Giô-tham, những việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 37Vào thời ấy, ĐỨC CHÚA bắt đầu sai vua A-ram là Rơ-xin và vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, đến đánh Giu-đa. 38Vua Giô-tham đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất bên cạnh tổ tiên trong Thành Đa-vít, tổ phụ vua. Con vua là A-khát lên ngôi kế vị.Vua A-khát cai trị Giu-đa (736-716) (2 Sb 28:1-27)
1Năm thứ mười bảy triều vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, con vua Giô-tham, vua Giu-đa, là A-khát, lên làm vua. 2A-khát lên ngôi vua khi được hai mươi tuổi, và trị vì mười sáu năm ở Giê-ru-sa-lem. Vua đã không làm điều ngay chính trước mắt ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của vua, như vua Đa-vít, tổ phụ vua. 3Vua đã đi theo đường lối các vua Ít-ra-en, và thậm chí còn làm lễ thiêu con trai mình, theo các thói ghê tởm của các dân mà ĐỨC CHÚA đã trục xuất cho khuất mắt con cái Ít-ra-en. 4Vua đã tế lễ và đốt hương trên các nơi cao, trên các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh.5Bấy giờ, vua A-ram là Rơ-xin, và vua Ít-ra-en là Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, lên đánh Giê-ru-sa-lem. Họ vây hãm vua A-khát, nhưng không đánh thắng được. 6Thuở ấy, vua A-ram là Rơ-xin đem Ê-lát về lại cho A-ram. Vua đuổi người Giu-đa khỏi Ê-lát. Người A-ram lại vào Ê-lát và tiếp tục ở đó cho đến ngày nay. 7Vua A-khát sai sứ giả đến nói với vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe: "Tôi là tôi tớ, là con cái của ngài. Xin ngài lên cứu tôi khỏi tay vua A-ram và vua Ít-ra-en, họ nổi lên chống tôi." 8Vua A-khát lấy bạc vàng có trong Nhà ĐỨC CHÚA và trong kho đền vua mà gửi tặng vua Át-sua. 9Vua Át-sua nhận lời, tiến lên đánh Đa-mát và chiếm được thành đó. Vua đày dân đến thành Kia và giết vua Rơ-xin.
10Vua A-khát đi Đa-mát gặp vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe. Khi nhìn thấy bàn thờ ở Đa-mát, vua A-khát gửi cho tư tế U-ri-gia hoạ đồ kiểu mẫu của bàn thờ, và mọi chi tiết chỉ dẫn cách làm. 11Tư tế U-ri-gia xây bàn thờ: tất cả những chỉ thị vua A-khát gửi về từ Đa-mát, tư tế U-ri-gia đều thi hành đúng như thế, trong khi chờ vua A-khát từ Đa-mát về. 12Khi từ Đa-mát về, vua nhìn thấy bàn thờ, lại gần, rồi tiến lên. 13Vua cho đốt của lễ toàn thiêu, lễ phẩm, tưới rượu tế và lấy máu những con vật của hy lễ kỳ an rảy lên bàn thờ. 14Còn bàn thờ bằng đồng ở trước nhan ĐỨC CHÚA, ở giữa bàn thờ mới và Nhà ĐỨC CHÚA, vua dời đi khỏi phía trước Nhà ĐỨC CHÚA, và đặt bên cạnh bàn thờ mới, ở phía bắc. 15Rồi vua A-khát truyền lệnh cho tư tế U-ri-gia rằng: "Trên bàn thờ lớn, ông sẽ cho đốt của lễ toàn thiêu ban sáng và lễ phẩm ban chiều, lễ toàn thiêu, lễ phẩm của vua, lễ toàn thiêu, lễ phẩm và các lễ tưới rượu của toàn dân trong xứ. Ông sẽ rảy trên bàn thờ tất cả máu của các lễ toàn thiêu và của các hy lễ. Còn bàn thờ bằng đồng thì ta sẽ tính sau." 16Tư tế U-ri-gia đã thi hành đúng mệnh lệnh vua A-khát.
17Vua A-khát bẻ gẫy các đòn ngang và các giàn: vua cất các bồn nước đặt ở trên đi. Bể nước bằng đồng kê trên những con bò, thì vua hạ xuống mà đặt trên một nền đá. 18Để được lòng vua Át-sua, vua thay đổi vị trí trong Nhà ĐỨC CHÚA: hành lang ngày sa-bát xây trong Nhà ĐỨC CHÚA, và lối vào của vua nằm ở bên ngoài.
19Các truyện còn lại của vua A-khát, những việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 20Vua A-khát đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất bên cạnh tổ tiên trong Thành Đa-vít. Con vua là Khít-ki-gia-hu lên ngôi kế vị.
Vua Hô-sê cai trị Ít-ra-en (732-724)
1Năm thứ mười hai triều A-khát, vua Giu-đa, con ông Ê-la là Hô-sê lên làm vua cai trị Ít-ra-en chín năm, ở Sa-ma-ri. 2Vua đã làm diều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, tuy không bằng các vua Ít-ra-en trước. 3Vua Át-sua là San-ma-ne-xe tiến lên đánh vua. Vua Hô-sê đã phải làm tôi và triều cống vua ấy. 4Nhưng vua Át-sua khám phá ra là vua Hô-sê âm mưu phản loạn: vua đã sai sứ giả đến với vua Ai-cập là Xô, và không còn triều cống vua Át-sua như hằng năm trước đây. Vua Át-sua cho bắt vua Hô-sê, xiềng lại và bỏ tù.Sa-ma-ri thất thủ (721)
5Vua Át-sua tiến đánh cả xứ, đến Sa-ma-ri và vây hãm thành này ba năm. 6Năm thứ chín triều vua Hô-sê, vua Át-sua chiếm được Sa-ma-ri và đày Ít-ra-en sang Át-sua. Vua cho họ định cư ở Khơ-lác, và ở ven sông Kha-vo thuộc vùng Gô-dan, và trong các thành xứ Mê-đi.Suy gẫm về vương quốc Ít-ra-en suy tàn
7Sự việc đó xảy ra, vì con cái Ít-ra-en đã đắc tội với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ, là Đấng đã đem họ lên từ đất Ai-cập, đã giải thoát họ khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và vì họ đã kính sợ các thần khác. 8Họ theo những thói tục của các dân ĐỨC CHÚA đã trục xuất cho khuất mắt con cái Ít-ra-en và những thói tục các vua Ít-ra-en đã tạo ra. 9Con cái Ít-ra-en đã thốt những lời bất xứng phạm đến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ; họ xây cho mình các tế đàn ở nơi cao trong mọi thành của họ, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố. 10Họ đã dựng các trụ đá và cột thờ trên mọi đồi cao và dưới mọi cây xanh. 11Ở đó, trên mọi tế đàn ở nơi cao, họ đã đốt hương như các dân ĐỨC CHÚA đã đày cho khuất mặt họ, và họ đã làm những việc xấu xa để trêu giận Người. 12Họ phụng thờ những ngẫu tượng, mặc dù ĐỨC CHÚA đã phán với họ: "Các ngươi sẽ không được làm điều đó."13Nhưng ĐỨC CHÚA đã dùng tất cả các ngôn sứ và các thầy chiêm mà cảnh cáo Ít-ra-en và Giu-đa: "Hãy trở lại, bỏ con đường tà của các ngươi, hãy tuân giữ các mệnh lệnh và quy tắc của Ta, đúng theo Lề Luật Ta đã truyền cho cha ông các ngươi, và Ta đã chuyển đến các ngươi nhờ các ngôn sứ tôi trung của Ta." 14Nhưng họ đã không nghe lời, họ cứng đầu cứng cổ như cha ông họ, những người không tin vào ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ. 15Họ đã khinh dể những quy luật của Người, cũng như giao ước Người đã lập với cha ông họ và những chỉ thị Người đã truyền cho họ. Họ đã đi theo thần hư ảo, và chính họ cũng trở nên hư ảo, theo các dân ngoại ở chung quanh họ, mặc dầu ĐỨC CHÚA đã truyền cho họ không được làm như các dân đó. 16Họ đã bỏ tất cả các mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ, và họ đã đúc cho mình tượng hai con bê; họ đã dựng cột thờ, sụp xuống lạy toàn thể thiên binh và phụng thờ Ba-an. 17Họ đã làm lễ thiêu con trai con gái họ; họ làm nghề bói toán, nghề phù thuỷ, và họ bán mình để làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, để trêu giận Người. 18ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đẩy Ít-ra-en cho khuất nhan Người. Chỉ còn lại chi tộc Giu-đa.
19Cả Giu-đa nữa cũng không tuân giữ các mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của mình, và theo những thói tục Ít-ra-en đã tạo ra. 20Vì thế, ĐỨC CHÚA đã từ bỏ toàn thể dòng giống Ít-ra-en; Người đã hành hạ và nộp họ vào tay quân cướp cho đến khi xua đuổi họ cho khuất nhan Người. 21Người đã tách Ít-ra-en khỏi nhà Đa-vít và họ đã tôn con ông Nơ-vát là Gia-róp-am làm vua. Vua Gia-róp-am đã thúc đẩy Ít-ra-en rời bỏ ĐỨC CHÚA và làm cho họ phạm một tội lớn. 22Con cái Ít-ra-en đã bắt chước vua mà phạm mọi tội vua đã phạm, họ không dứt bỏ các tội đó, 23đến nỗi ĐỨC CHÚA đẩy Ít-ra-en đi cho khuất nhan Người, như Người đã dùng mọi ngôn sứ, tôi trung của Người, mà phán. Ít-ra-en đã bị đày biệt xứ sang Át-sua cho đến ngày nay.
Nguồn gốc người Sa-ma-ri
24Vua Át-sua đã đưa người từ Ba-by-lon, Cu-tha, A-va, Kha-mát và Xơ-phác-va-gim đến định cư ở các thành xứ Sa-ma-ri, thế vào chỗ con cái Ít-ra-en. Họ chiếm Sa-ma-ri và ở trong các thành của xứ này.25Ban đầu, khi mới định cư ở đó, họ không kính sợ ĐỨC CHÚA, nên Người đã sai sư tử đến phá phách họ và giết hại nhiều người. 26Họ nói với vua Át-sua: "Các dân mà vua đã cho đi đày, và định cư ở thành xứ Sa-ma-ri, không biết cách tôn thờ vị thần của xứ. Vì thế, vị thần đó đã sai sư tử đến phá phách và giết chết họ, bởi họ không biết cách tôn thờ vị thần của xứ." 27Vua Át-sua mới truyền lệnh sau đây: "Hãy đưa một trong những tư tế mà ta đã cho đi đày, trở lại đó; tư tế ấy phải đến định cư ở đó và dạy họ biết cách tôn thờ vị thần của xứ." 28Bấy giờ, một trong những tư tế Sa-ma-ri, đã bị đi đày, tới định cư ở Bết Ên và dạy họ biết cách kính sợ ĐỨC CHÚA.
29Nhưng mỗi dân lại tạc tượng thần của mình và đặt trong các miếu ở nơi cao mà người Sa-ma-ri đã xây; họ đã làm như vậy trong thành họ ở. 30Người Ba-by-lon tạc tượng thần Xúc-cốt Bơ-nốt, người Cu-tha tạc tượng thần Néc-gan, người Kha-mát tạc tượng thần A-si-ma, 31Người A-va tạc tượng thần Níp-khát và Tác-tắc; còn người Xơ-phác-va-gim thì làm lễ thiêu con trai của họ để kính Át-ram-me-léc và A-nam-me-léc, các thần của dân Xơ-phác-va-gim. 32Họ cũng kính sợ ĐỨC CHÚA, và chọn những người cùng nhóm làm tư tế phục vụ tại các tế đàn ở nơi cao và tế lễ cho họ trong các miếu ở nơi cao. 33Họ kính sợ ĐỨC CHÚA nhưng cũng phụng thờ các thần của họ, theo cách tôn thờ của các dân mà họ đã rời bỏ khi bị đi đày. 34Cho đến ngày nay họ vẫn theo cách tôn thờ xưa kia của họ.
35ĐỨC CHÚA đã lập giao ước với họ và truyền lệnh cho họ: "Các ngươi không được kính sợ các thần khác và không được sụp xuống lạy chúng; các ngươi không được phụng thờ và tế lễ chúng. 36Nhưng chính ĐỨC CHÚA, Đấng đã dùng sức mạnh lớn lao và cánh tay uy quyền đưa các ngươi lên từ Ai-cập, chính Người là Đấng các ngươi phải kính sợ, phải sụp xuống lạy và phải tế lễ. 37Những quy luật, những quyết định, Lề Luật và mệnh lệnh Người đã truyền ghi chép cho các ngươi, các ngươi phải tuân giữ, phải thi hành mọi ngày. Các ngươi không được kính sợ các thần khác. 38Giao Ước Ta đã lập với các ngươi, các ngươi không được quên; và các ngươi không được kính sợ các thần khác. 39Nhưng chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa các ngươi, là Đấng các ngươi phải kính sợ. Người sẽ giải thoát các ngươi khỏi tay mọi địch thù của các ngươi." 40Người Sa-ma-ri đã không nghe lời, họ cứ theo cách tôn thờ xưa kia của họ.
41Như thế, các dân ấy đã kính sợ ĐỨC CHÚA, nhưng cũng phụng thờ các ngẫu tượng của họ; con cái cháu chắt họ cũng làm như cha ông họ cho đến ngày nay.
VIII. NHỮNG GIAI ĐOẠN CUỐI CÙNG CỦA VƯƠNG QUỐC GIU-ĐA
1. VUA KHÍT-KI-GIA, NGÔN SỨ I-SAI-A VÀ NƯỚC ÁT-SUA
Dẫn nhập vào triều vua Khít-ki-gia (716-687) (2 Sb 29:1-2;31:1)
1Năm thứ ba triều vua Hô-sê, con ông Ê-la, vua Ít-ra-en, con vua A-khát, vua Giu-đa, là Khít-ki-gia lên làm vua. 2Khi lên ngôi, vua được hai mươi lăm tuổi và trị vì hai mươi chín năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là A-vi, con gái ông Dơ-khác-gia. 3Vua đã làm điều ngay chính trước mắt ĐỨC CHÚA, đúng như vua Đa-vít, tổ phụ vua đã làm. 4Chính vua đã dẹp các tế đàn ở nơi cao, đập bể các trụ đá, bổ các cột thờ và đập tan con rắn đồng ông Mô-sê đã làm, vì cho đến thời đó, con cái Ít-ra-en vẫn đốt hương kính nó; người ta gọi nó là Nơ-khút-tan.5Vua đã đặt niềm tin tưởng vào ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en. Sau vua, chẳng có vua Giu-đa nào được như thế, cũng như trước vua chẳng có ai được như vậy. 6Vua gắn bó với ĐỨC CHÚA, không bỏ Người; vua tuân giữ các mệnh lệnh ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê. 7Vì thế, ĐỨC CHÚA đã ở với vua; vua tra tay làm việc gì thì cũng thành công. Vua nổi lên chống lại vua Át-sua và không còn chịu phục tùng vua ấy nữa. 8Chính vua đã đánh đuổi quân Phi-li-tinh cho đến Ga-da và ranh giới của thành ấy, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.
Nhắc lại chuyện Sa-ma-ri thất thủ
9Năm thứ tư triều vua Khít-ki-gia, tức là năm thứ bảy triều vua Hô-sê, con ông Ê-la, vua Ít-ra-en, vua Át-sua là San-ma-ne-xe tiến lên đánh và vây thành Sa-ma-ri. 10Sau ba năm, người ta chiếm được thành. Sa-ma-ri thất thủ vào năm thứ sáu triều vua Khít-ki-gia, tức là năm thứ chín triều vua Hô-sê, vua Ít-ra-en. 11Vua Át-sua đày Ít-ra-en sang Át-sua và cho lập cư tại Khơ-lác, và ở ven sông Kha-vo thuộc vùng Gô-dan, và trong các thành xứ Mê-đi, 12vì họ đã không nghe lời ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ, và đã vi phạm giao ước của Người; tất cả những gì ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, đã truyền, họ đều không nghe theo và thi hành.Cuộc xâm lăng của vua Xan-khê-ríp (Es 36:1)
13Năm thứ mười bốn triều vua Khít-ki-gia, vua Át-sua là Xan-khê-ríp tiến lên đánh mọi thành kiên cố của Giu-đa và đã chiếm được. 14Vua Giu-đa là Khít-ki-gia mới sai người đến nói với vua Át-sua ở La-khít: "Tôi có tội, xin ngài lui binh cho, ngài bắt nộp gì, tôi cũng chịu." Vua Át-sua bắt vua Khít-ki-gia phải nộp chín ngàn ký bạc và chín trăm ký vàng. 15Vua Khít-ki-gia nộp tất cả số bạc có trong Nhà ĐỨC CHÚA và trong kho đền vua. 16Chính vào thời đó, vua Khít-ki-gia đập gẫy các cánh cửa của đền thờ ĐỨC CHÚA, cũng như các khung cửa mà. .., vua Giu-đa, đã bọc bằng kim khí, lấy nộp cho vua Át-sua.Sứ mạng của quan chánh chước tửu (2 Sb 32:9-19; Es 36:2-22)
17Từ La-khít, vua Át-sua sai tướng tổng tư lệnh, quan thái giám và quan chánh chước tửu, cùng với một đạo binh hùng hậu, đến gặp vua Khít-ki-gia ở Giê-ru-sa-lem. Họ tiến lên và đến Giê-ru-sa-lem. Họ đứng gần kênh dẫn nước của hồ trên, phía đường dẫn tới cánh đồng Thợ Nện Dạ. 18Họ cho mời vua đến. Ra đón tiếp họ có ông En-gia-kim, con ông Khin-ki-gia-hu, đại nội thị thần, cũng như viên ký lục Sép-na và viên quản lý văn khố Giô-ác, con ông A-xáp. 19Viên chánh chước tửu bảo họ: "Hãy nói với vua Khít-ki-gia: đại đế là vua Át-sua phán thế này: "Dựa vào niềm tin nào mà ông tin tưởng như thế? 20Ông tưởng rằng trong cuộc chiến, lời nói suông ngoài miệng thay thế được cho mưu kế và sức mạnh sao? Giờ đây, ông tin tưởng vào ai mà dám nổi loạn chống ta? 21Hoá ra ông tin tưởng vào cây gậy sậy dập nát là Ai-cập; nó sẽ đâm thủng bàn tay kẻ vịn vào nó! Pha-ra-ô vua Ai-cập là vậy đó, đối với mọi kẻ tin tưởng vào ông ta. 22Có thể ông sẽ nói với tôi: "Chúng tôi tin tưởng vào ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng tôi. Thế chẳng phải Khít-ki-gia đã dẹp các nơi cao và các bàn thờ của Người đó sao? Ông ta đã chẳng nói với Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: Các ngươi sẽ sụp lạy trước bàn thờ này ở Giê-ru-sa-lem? 23Bây giờ ông hãy đánh cuộc với vua Át-sua chúa thượng tôi: Tôi cho ông hai ngàn con ngựa nếu ông tìm được người cưỡi. 24Liệu ông có thể đẩy lui được một người thuộc hạng dở nhất trong nhóm bộ hạ của chúa thượng tôi không? Thế mà ông lại cậy vào Ai-cập để có xe, có ngựa! 25Bây giờ có phải ngoài ý muốn của ĐỨC CHÚA mà ta đã tiến đánh để tàn phá nơi này không? Chính ĐỨC CHÚA đã phán với ta: "Hãy tiến đánh và tàn phá xứ này! "26Ông En-gia-kim, con ông Khin-ki-gia-hu, ông Sép-na và ông Giô-ác nói với viên chánh chước tửu: "Xin ngài dùng tiếng A-ram mà nói vì các tôi tớ ngài đây hiểu được. Ngài đừng nói tiếng Giu-đa với chúng tôi, kẻo dân ở trên tường thành nghe được." 27Viên chánh chước tửu nói: "Chẳng lẽ Chúa thượng tôi sai tôi đến nói những lời như thế với chúa thượng của ông hay với ông sao? Chẳng phải là để nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, đang phải ăn phân và uống nước tiểu của mình, cùng với các ông sao? "
28Bấy giờ, viên chánh chước tửu đứng thẳng và hô lớn bằng tiếng Giu-đa rằng: "Hãy nghe lời đại đế, vua Át-sua: 29Đức vua phán thế này: Đừng để Khít-ki-gia lừa dối các ngươi, vì ông ta không thể nào giải thoát các ngươi khỏi tay ta được. 30Cũng đừng để Khít-ki-gia dụ dỗ các ngươi tin tưởng vào ĐỨC CHÚA khi ông ta nói: Chắc chắn ĐỨC CHÚA sẽ giải thoát chúng ta, và thành này sẽ không bị nộp vào tay vua Át-sua. 31Đừng nghe lời Khít-ki-gia, vì vua Át-sua phán thế này: Hãy làm hoà với ta và ra đây; ai nấy trong các ngươi vẫn được ăn hoa trái trong vườn nho, vườn vả của mình, vẫn được uống nước bể nhà mình, 32cho tới khi ta đến đem các ngươi tới một xứ giống như xứ các ngươi, một xứ có lúa mì và rượu, xứ có bánh, có vườn nho và vườn ô-liu, xứ có dầu tươi và mật ong; như vậy, các ngươi sẽ được sống và khỏi phải chết. Đừng nghe lời Khít-ki-gia, vì ông ta phỉnh gạt các ngươi khi nói: ĐỨC CHÚA sẽ giải thoát chúng ta. 33Hỏi rằng trong các thần của chư dân, đã có vị nào thực sự giải thoát xứ mình khỏi tay vua Át-sua chưa? 34Các thần của Kha-mát và Ác-pát ở đâu? Các thần của Xơ-phác-va-gim, của Hê-na và I-va ở đâu? Họ có giải thoát được Sa-ma-ri khỏi tay ta chăng? 35Trong tất cả các thần của các xứ, hỏi đã có thần nào cứu được xứ của họ thoát khỏi tay ta chưa? Vậy ĐỨC CHÚA cứu nổi Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta sao? "
36Dân làm thinh, không đáp một lời; vì vua đã ra lệnh: "Các ngươi đừng đáp lại hắn! " 37Ông En-gia-kim, đại nội thị thần, con ông Khin-ki-gia vào yết kiến vua Khít-ki-gia-hu cùng với ông Sép-na, ký lục, và ông Giô-ác, quản lý văn khố, con ông A-xáp. Họ xé áo mình ra, kể lại cho vua nghe những lời viên chánh chước tửu đã nói.
Cầu cứu ngôn sứ I-sai-a (Es 37:1-7)
1Nghe thế, vua Khít-ki-gia liền xé áo mình ra, khoác áo vải thô, vào Nhà ĐỨC CHÚA. 2Vua sai ông En-gia-kim, đại nội thị thần, ông Sép-na, ký lục, và các kỳ mục trong hàng tư tế, tất cả đều khoác áo vải thô, đến gặp ngôn sứ I-sai-a, con ông A-mốc. 3Họ thưa: "Vua Khít-ki-gia phán thế này: Hôm nay là một ngày khốn quẫn, ngày trừng phạt, ngày ô nhục. Vì đã đến lúc con lọt lòng, mà mẹ lại không có sức sinh! 4Ước chi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông nghe thấy tất cả những lời của viên chánh chước tửu là người đã được vua Át-sua, chúa thượng hắn, sai đến thoá mạ Thiên Chúa hằng sống; ước gì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông, trừng phạt vì những lời Người đã nghe thấy. Xin ông dâng lời cầu nguyện cho số sót còn lại."5Khi các thuộc hạ của vua Khít-ki-gia đến gặp ông I-sai-a, 6ông I-sai-a bảo họ: "Các vị sẽ thưa với chúa thượng của các vị như sau: ĐỨC CHÚA phán thế này: "Đừng sợ những lời ngươi đã nghe, những lời mà các tên hầu của vua Át-sua đã xúc phạm đến Ta. 7Này Ta sẽ đặt nơi nó một thần khí; khiến nó vừa nghe một tin đồn, liền rút lui về nước. Ta sẽ làm cho nó bị gươm đâm gục ngã ngay tại xứ sở nó."
Viên chánh chước tửu trở về (Es 37:8-9a)
8Viên chánh chước tửu trở về gặp lúc vua Át-sua đang giao chiến với Líp-na. Quả thật, ông nghe biết vua đã rời La-khít, 9vì vua nhận được tin nói về vua Cút là Tia-ha-ca: "Kìa vua ấy đã ra quân để giao chiến với ngài."37:9b-20)
10"Các ngươi sẽ nói với Khít-ki-gia, vua Giu-đa, thế này: Đừng để Thiên Chúa của ông là Đấng ông tin tưởng, lừa dối ông rằng: Giê-ru-sa-lem sẽ không bị nộp vào tay vua Át-sua. 11Này, ông thừa biết các vua Át-sua đã xử thế nào với tất cả các nước: Các vị ấy đã tru hiến chúng; còn ông, ông thoát sao được? 12Thế các thần của chư dân mà cha ông ta đã tiêu diệt, tức là các dân Gô-dan, Kha-ran, Re-xép, và con cái ông E-đen ở Tơ-la-xa, có giải thoát được các dân ấy không? 13Các vua của Kha-mát, của Ác-pát, của La-ia, Xơ-phác-va-gim, Hê-na, I-va đâu cả rồi? "
14Vua Khít-ki-gia cầm lấy thư từ tay các sứ giả trao cho mà đọc, rồi lên Nhà ĐỨC CHÚA, mở thư ra trước nhan ĐỨC CHÚA. 15Vua cầu nguyện trước nhan ĐỨC CHÚA rằng: "Lạy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa Ít-ra-en, Đấng ngự trên các Kê-ru-bim, chính Ngài, và chỉ mình Ngài mới là Thiên Chúa thống trị mọi vương quốc trần gian. Chính Ngài đã làm nên trời đất. 16Lạy ĐỨC CHÚA, xin lắng tai nghe, lạy ĐỨC CHÚA, xin đưa mắt nhìn. Xin nghe rõ những lời Xan-khê-ríp là kẻ đã sai người đến thoá mạ Thiên Chúa hằng sống. 17Quả thật, lạy ĐỨC CHÚA, các vua Át-sua đã tàn phá các dân và xứ sở của họ, 18quăng các tượng thần của họ vào lửa, vì chúng không phải là thần, mà chỉ là tác phẩm bằng gỗ đá do tay người phàm làm ra, cho nên các vua ấy đã phá huỷ được. 19Nhưng giờ đây, lạy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng con, xin đoái thương cứu chúng con khỏi tay vua ấy, để mọi vương quốc trần gian nhận biết rằng chính Ngài, và chỉ một mình Ngài mới là Thiên Chúa, lạy ĐỨC CHÚA! "
Ông I-sai-a can thiệp (Es 37:21-35)
20Ông I-sai-a con ông A-mốc, sai người đến tâu vua Khít-ki-gia rằng: "ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện về vụ Xan-khê-ríp, vua Át-sua. 21Đây lời ĐỨC CHÚA kết tội nó:Trinh nữ, cô gái Xi-on khinh dể, nhạo báng ngươi;sau lưng ngươi, cô gái Giê-ru-sa-lem lắc đầu!22Ngươi đã thoá mạ, lăng nhục ai,đã lớn tiếng, vênh mặt khinh khi ai,nếu không phải là chính Đấng Thánh của Ít-ra-en!
23Ngươi đã dùng sứ giả mà phỉ báng Chúa Thượng,và ngươi nói rằng: "Với vô vàn chiến xa, ta trèo lên đỉnh núi,lên những ngọn cao chót vót của Li-băng.Ta đốn những cây bá hương cao vút,những ngọn tùng bách đẹp tuyệt.Ta vào tận sào huyệt cuối cùng, tới rừng cây thăm thẳm.
24Chính ta đã đào giếng, đã uống nước của ngoại bang;ta đã làm cạn khô mọi sông ngòi Ai-cập dưới đôi bàn chân ta.
25Phải chăng ngươi không hề nghe biếtTa đã làm những điều ấy từ lâu?Những điều Ta dự tính từ những ngày xa xưa,giờ đây Ta thực hiện:là phá tan những thành trì kiên cố,khiến chúng trở nên đống đá vụn hoang tàn.
26Cư dân của chúng đành bó tay và thẹn thùng khiếp đảm.Khác nào cỏ đồng nội, tựa đám cỏ xanh tươi,đám cỏ mọc mái nhà, hoặc như cây lúa héochưa kịp vươn lên cao.
27Khi ngươi ngồi, ngươi đứng, lúc ngươi ra, lúc ngươi vào,Ta đều biết rõ cả; ngay lúc ngươi nổi giận với Ta, Ta cũng biết.
28Bởi vì ngươi nổi giận với Ta,và những lời ngạo mạn đã thấu tận tai Ta,nên Ta sẽ xỏ vòng vào mũi, tra hàm thiếc vào môi ngươi.Trên chính con đường ngươi đã tới, Ta sẽ bắt ngươi phải lui về.
29Đây sẽ là dấu hiệu cho ngươi:Năm nay ăn lúa chét;năm tới có lúa trổi;đến năm thứ ba, hãy gieo, hãy gặt,hãy trồng nho mà ăn trái.
30Trong nhà Giu-đa, những gì đã thoát chết,những gì còn sót lại, sẽ cứ tiếp tục đâm rễ sâuvà trên cao trổ sinh hoa trái.
31Vì từ Giê-ru-sa-lem, sẽ nảy sinh số còn sót lại,và từ núi Xi-on, sẽ xuất hiện những người thoát chết.Vì yêu thương cuồng nhiệt, ĐỨC CHÚA sẽ thực hiện điều đó.
32Về vua Át-sua ĐỨC CHÚA phán như sau:Nó sẽ không vào được thành này,không bắn được mũi tên tới đó,không núp sau thuẫn mà xông lên,cũng chẳng đắp ụ để công phá.
33Nó sẽ phải quay về, theo chính con đường nó đã đến,chứ thành này thì nó không vào được.Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
34Vì Ta và vì Đa-vít, tôi tớ của Tachính Ta sẽ che chở và sẽ cứu thành này."
Vua Xan-khê-ríp bại trận và chết (Es 37:36-38)
35Chính đêm ấy, thiên sứ của ĐỨC CHÚA ra đánh chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Át-sua. Ban sáng, khi người ta thức dậy, thì kìa, toàn là thây ma xác chết.36Vua Át-sua là Xan-khê-ríp nhổ trại và lên đường. Ông rút về Ni-ni-vê và ở lại đó. 37Nhưng rồi, khi ông đang sụp xuống lạy thần Nít-rốc của ông trong đền thờ, thì các con ông là Át-ram-me-léc và Sa-re-xe dùng gươm đâm ông chết, rồi trốn sang xứ A-ra-rát. Con vua là Ê-xa-khát-đôn lên ngôi kế vị.
Vua Khít-ki-gia lâm bệnh và được khỏi (Es 38:1-8,21-22;2 Sb 32:24-26)
1Trong những ngày ấy, vua Khít-ki-gia lâm bệnh nguy tử. Ngôn sứ I-sai-a, con ông A-mốc, đến gặp vua và nói: "ĐỨC CHÚA phán thế này: Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết chứ không sống nổi đâu." 2Vua quay mặt vào tường, và cầu nguyện với ĐỨC CHÚA như sau: 3"Ôi, lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài nhớ cho, con đã trung tín và thành tâm bước đi trước nhan Ngài, đã thi hành điều đẹp mắt Ngài." Rồi vua Khít-ki-gia khóc, khóc thật to.4Ông I-sai-a chưa ra đến sân giữa, thì lời ĐỨC CHÚA phán với ông: 5"Hãy quay lại nói với Khít-ki-gia, thủ lãnh dân Ta: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Đa-vít, tổ tiên ngươi, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Này Ta chữa lành ngươi, ba ngày nữa, ngươi sẽ lên Nhà ĐỨC CHÚA. 6Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa. Ta sẽ giải thoát ngươi cùng với thành này khỏi tay vua Át-sua, và sẽ che chở thành này, vì Ta và vì Đa-vít, tôi tớ của Ta."
7Ông I-sai-a nói: "Hãy lấy một cái bánh vả." Người ta đi lấy, đặt trên ung nhọt và vua sống được.
8Vua Khít-ki-gia nói với ông I-sai-a: "Tôi dựa vào dấu hiệu nào để biết ĐỨC CHÚA sẽ chữa lành tôi, và ba ngày nữa tôi sẽ lên Nhà ĐỨC CHÚA? " 9Ông I-sai-a trả lời: "Đây là dấu ĐỨC CHÚA ban cho ngài, chứng tỏ ĐỨC CHÚA sẽ thực hiện điều Người đã phán: Vua muốn bóng tiến mười độ hay lùi mười độ? " 10Vua Khít-ki-gia nói: "Bóng ngả thêm mười độ: điều đó quá dễ! Không! Xin cho bóng lùi mười độ! " 11Ngôn sứ I-sai-a cầu khẩn ĐỨC CHÚA, và Người cho bóng lùi lại mười độ, so với bóng đã ngả trên bậc thang mà vua A-khát đã xây.
Các sứ giả của vua Mơ-rô-đác Ba-la-đan (Es 39:1-8)
12Khi ấy, vua Ba-by-lon là Mơ-rô-đác Ba-la-đan, con ông Ba-la-đan, sai người đem thư và quà tặng cho vua Khít-ki-gia, vì nghe tin vua bị bệnh. 13Sau khi nghe các sứ giả, vua Khít-ki-gia cho họ xem mọi kho tàng của vua, vàng bạc, hương liệu, dầu quý, kho vũ khí và tất cả những gì có trong các nơi dự trữ của vua, không có gì trong cung điện và trong toàn lãnh thổ mà vua Khít-ki-gia không cho họ xem.14Ngôn sứ I-sai-a vào gặp vua Khít-ki-gia và nói: "Những người ấy đã nói gì với vua, và họ từ đâu tới? " Vua Khít-ki-gia đáp: "Họ từ một xứ xa xôi, mãi tận Ba-by-lon đến đây." 15Ông hỏi: "Họ thấy gì trong cung điện của ngài? " Vua đáp: "Trong cung điện của tôi có gì, họ thấy hết cả. Không có gì trong các kho dự trữ mà tôi không cho họ xem."
16Bấy giờ, ông I-sai-a nói với vua Khít-ki-gia: "Xin vua nghe lời của ĐỨC CHÚA: 17Này, sẽ đến những ngày mọi sự trong cung điện ngươi, tất cả những gì xưa nay tổ tiên ngươi đã tích trữ đều bị đem đi Ba-by-lon, không còn lại một thứ gì, ĐỨC CHÚA phán. 18Một số con cái ngươi, xuất thân từ ngươi, do chính ngươi sinh ra, sẽ bị bắt đi làm thái giám trong hoàng cung của vua Ba-by-lon." 19Vua Khít-ki-gia nói với ông I-sai-a: "Lời ĐỨC CHÚA ông vừa truyền lại quả là tốt." Vua tự nhủ: "Sao lại không? Miễn là có hoà bình và an ninh trong đời ta."
Kết thúc triều vua Khít-ki-gia (2 Sb 32:32-33)
20Những truyện còn lại của vua Khít-ki-gia, mọi chiến công của vua, cũng như việc xây hồ và kênh dẫn nước vào thành, những điều ấy đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 21Vua Khít-ki-gia đã an nghỉ với tổ tiên. Con vua là Mơ-na-se, lên ngôi kế vị.2. HAI VUA BẤT TRUNG
Vua Mơ-na-se cai trị Giu-đa (687-642) (2 Sb 33:1-10,18-20)
1Mơ-na-se lên ngôi vua khi được mười hai tuổi, và trị vì năm mươi lăm năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Khép-xi Va. 2Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, theo những thói ghê tởm của các dân mà ĐỨC CHÚA đã trục xuất cho khuất mắt con cái Ít-ra-en. 3Vua xây lại những nơi cao mà vua cha là Khít-ki-gia đã phá huỷ; vua lập các tế đàn kính Ba-an, dựng một cột thờ như vua Ít-ra-en là A-kháp đã làm, sụp lạy toàn thể các thiên binh và phụng thờ chúng. 4Vua xây các tế đàn trong Nhà ĐỨC CHÚA, như ĐỨC CHÚA phán: "Chính ở Giê-ru-sa-lem Ta sẽ đặt Danh Ta."5Trong hai sân của Nhà ĐỨC CHÚA vua đã xây các tế đàn kính toàn thể các thiên binh. 6Vua làm lễ thiêu con trai mình, làm nghề chiêm tinh và phù thuỷ, lập ra cô đồng và thầy bói; vua làm nhiều điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA để trêu giận Người. 7Vua đặt tượng thần A-sê-ra, mà vua đã tạc, trong Nhà ĐỨC CHÚA, Nhà mà ĐỨC CHÚA đã phán với vua Đa-vít và vua Sa-lô-môn, con vua: "Tại Nhà này và ở Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn giữa mọi chi tộc Ít-ra-en, Ta sẽ đặt Danh Ta mãi mãi. 8Ta sẽ không để chân Ít-ra-en phiêu bạt đây đó, xa miền đất Ta đã ban cho tổ tiên chúng, chỉ cần chúng lo làm đúng theo những gì Ta đã truyền cho chúng, và đúng theo tất cả Lề Luật mà Mô-sê, tôi trung của Ta, đã truyền cho chúng." 9Nhưng họ đã không nghe theo, và vua Mơ-na-se đã làm cho họ lạc đường, khiến họ làm điều dữ hơn cả những nước mà ĐỨC CHÚA đã tiêu diệt trước mặt con cái Ít-ra-en.
10ĐỨC CHÚA đã dùng các ngôn sứ, tôi trung của Người, mà phán: 11"Vì Mơ-na-se, vua Giu-đa, đã làm những điều ghê tởm ấy, vì nó đã hành động tệ hơn cả những người E-mô-ri ở đấy trước nó đã làm, vì nó cũng đã dùng các ngẫu tượng mà lôi kéo Giu-đa phạm tội, 12thì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: Này đây Ta sẽ giáng xuống Giê-ru-sa-lem và Giu-đa một tai hoạ, mà bất cứ ai nghe nói cũng phải ù cả hai tai. 13Ta sẽ san bằng Giê-ru-sa-lem, như đã san bằng Sa-ma-ri và nhà A-kháp; Ta sẽ vét sạch Giê-ru-sa-lem, như người ta vét sạch đĩa rồi úp xuống sau khi vét sạch. 14Ta sẽ từ bỏ gia nghiệp sót lại của Ta; Ta sẽ nộp chúng vào tay kẻ thù chúng, chúng sẽ thành mồi, thành chiến lợi phẩm cho mọi kẻ thù chúng, 15vì chúng đã làm những gì ĐỨC CHÚA coi là xấu, và chúng không ngừng trêu giận Ta từ ngày tổ tiên chúng ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay."
16Vua Mơ-na-se cũng đã đổ máu người vô tội, rất nhiều đến nỗi máu ấy tràn ngập Giê-ru-sa-lem từ đầu thành đến cuối thành; đó là không kể đến tội vua đã lôi kéo Giu-đa phạm theo, khi vua làm các điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA.
17Những truyện còn lại của vua Mơ-na-se và mọi việc vua làm, cũng như tội vua đã phạm, tất cả những điều ấy đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 18Vua Mơ-na-se đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất trong vườn thuộc cung điện vua, vườn của ông Út-da. Con vua là A-môn lên ngôi kế vị.
Vua A-môn cai trị Giu-đa (642-640) (2 Sb 33:21-25)
19A-môn lên làm vua khi được hai mươi hai tuổi, và trị vì hai năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Mơ-su-le-mét, con gái ông Kha-rút; bà là người Giót-va. 20Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, như vua cha là Mơ-na-se. 21Trong mọi sự, vua đã đi theo đường lối của vua cha, đã phụng thờ các ngẫu tượng mà vua cha đã phụng thờ và sụp lạy chúng. 22Vua đã bỏ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của tổ tiên, và không đi theo đường lối của ĐỨC CHÚA.23Các thuộc hạ vua A-môn đã âm mưu chống lại vua và giết chết vua trong cung điện. 24Dân trong xứ hạ sát mọi kẻ đã âm mưu chống lại vua A-môn, và tôn con vua là Giô-si-gia lên ngôi kế vị.
25Những truyện còn lại của vua A-môn, những việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 26Người ta đã chôn cất vua trong mộ vua, trong vườn của ông Út-da. Con vua là Giô-si-gia lên ngôi kế vị vua cha.
3. VUA GIÔ-SI-GIA VỚI VIỆC CẢI CÁCH TÔN GIÁO
Dẫn nhập vào triều vua Giô-si-gia (640-609) (2 Sb 34:1-2)
1Giô-si-gia lên làm vua khi được tám tuổi, và trị vì ba mươi mốt năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Giơ-đi-đa, con ông A-đa-gia; bà là người Bót-cát. 2Vua đã làm những điều ngay chính trước mắt ĐỨC CHÚA, và trong mọi sự vua đi theo đường lối vua Đa-vít, tổ tiên vua; vua không đi trệch bên phải bên trái.Tìm thấy sách Luật (2 Sb 34:8-18)
3Năm thứ mười tám triều Giô-si-gia, vua sai ký lục Sa-phan, con ông A-xan-gia-hu, cháu ông Mơ-su-lam, đến Nhà ĐỨC CHÚA và nói: 4"Hãy lên gặp thượng tế Khin-ki-gia-hu, xin thượng tế cộng lại số bạc dâng vào Nhà ĐỨC CHÚA, mà các tư tế canh ngưỡng cửa đã nhận của dân; 5người ta phải trao số bạc đó cho những người lo việc sửa chữa, những người phụ trách Nhà ĐỨC CHÚA; rồi những người này phải trả cho những người lo việc sửa chữa Nhà ĐỨC CHÚA, để họ sửa chữa những chỗ hư hại trong đó; 6cũng phải trả cho thợ mộc, thợ xây nhà và thợ nề, để họ mua gỗ và đá đẽo mà sửa chữa Nhà ĐỨC CHÚA. 7Nhưng đừng đòi họ tính sổ về số bạc đã trao cho họ, vì họ hành động liêm chính."8Thượng tế Khin-ki-gia-hu nói với ký lục Sa-phan: "Tôi đã tìm thấy sách Luật trong Nhà ĐỨC CHÚA." Ông Khin-ki-gia-hu trao sách cho ông Sa-phan đọc. 9Ký lục Sa-phan đến gặp vua và trình lên vua rằng: "Bầy tôi của vua đã đúc số bạc tìm thấy trong Nhà ĐỨC CHÚA, và đã trao cho những người lo việc sửa chữa, những người phụ trách Nhà ĐỨC CHÚA." 10Rồi ký lục Sa-phan báo tin cho vua như sau: "Tư tế Khin-ki-gia-hu đã đưa cho tôi một cuốn sách." Sau đó, ông Sa-phan đọc sách trước mặt vua.
Thỉnh ý nữ ngôn sứ Khun-đa (2 Sb 34:19-28)
11Nghe những lời ghi chép trong sách Luật, vua xé áo mình ra, 12rồi truyền lệnh sau đây cho tư tế Khin-ki-gia-hu, cho ông A-khi cam, con ông Sa-phan, cho ông Ác-bo, con ông Mi-kha-gia, cho ký lục Sa-phan và ông A-xa-gia, tôi tớ của vua: 13"Hãy đi thỉnh ý ĐỨC CHÚA cho ta, cho dân và toàn thể Giu-đa về những lời ghi chép trong sách đã tìm thấy đây, vì ĐỨC CHÚA đã bừng bừng nổi cơn thịnh nộ chống lại chúng ta, bởi lẽ tổ tiên chúng ta đã không vâng nghe các lời trong sách này mà làm theo mọi điều đã viết trong đó."14Tư tế Khin-ki-gia-hu, các ông A-khi-cam, Ác-bo, Sa-phan và A-xa-gia đi gặp nữ ngôn sứ Khun-đa, vợ người phụ trách phòng lễ phục là ông Sa-lum, con ông Tích-va; cháu ông Khác-khát; bà ở tại khu vực phụ thuộc thành Giê-ru-sa-lem. Họ thưa chuyện với bà; 15rồi bà bảo họ: "ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: "Hãy nói với người đã cử các ngươi đến gặp Ta: 16ĐỨC CHÚA phán thế này: Ta sắp giáng hoạ xuống nơi đó, xuống dân cư ở nơi đó, đúng như mọi lời ghi chép trong sách vua Giu-đa đã đọc. 17Vì chúng đã bỏ Ta và đã đốt hương kính các thần khác để trêu giận Ta bằng mọi việc tay chúng làm, nên Ta đã bừng bừng nổi giận chống lại nơi này, và cơn giận đó sẽ khôn nguôi. 18Các ông hãy nói thế này với vua Giu-đa đã sai các ông đi thỉnh ý ĐỨC CHÚA: "ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: những lời mà ngươi đã nghe. .. 19Vì ngươi đã mềm lòng và hạ mình trước nhan ĐỨC CHÚA, khi nghe những gì Ta đã nói chống lại nơi đó và dân cư ở đó, những kẻ sẽ trở thành kinh tởm và đáng nguyền rủa; vì ngươi đã xé áo mình ra và khóc lóc trước nhan Ta, thì Ta, Ta cũng đã nghe, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. 20Bởi thế, này Ta sẽ cho ngươi sum họp với tổ tiên ngươi, ngươi sẽ được bình yên sum họp nơi phần mộ ngươi. Mắt ngươi sẽ không thấy gì về tất cả tai hoạ Ta sắp giáng xuống nơi này." Họ đã trình lại cho vua câu trả lời ấy.
Đọc sách Luật (2 Sb 34:29-32)
1Vua sai người tập họp chung quanh vua mọi kỳ mục của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 2Rồi cùng với mọi người Giu-đa và mọi dân cư ở Giê-ru-sa-lem, cùng với các tư tế, các ngôn sứ và toàn dân từ người nhỏ nhất cho đến người lớn nhất. Vua lên Nhà ĐỨC CHÚA, đọc cho họ nghe tất cả các lời trong sách Giao Ước đã tìm thấy trong Nhà ĐỨC CHÚA. 3Đứng trên bệ cao, vua lập giao ước trước nhan ĐỨC CHÚA, cam kết đi theo ĐỨC CHÚA và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ thị và quy tắc của Người, để chu toàn các khoản của Giao Ước được ghi chép trong sách đó. Toàn dân chấp nhận giao ước.Việc cải cách tôn giáo ở Giu-đa (2 Sb 34:3-5)
4Vua truyền cho thượng tế Khin-ki-gia-hu, cho các tư tế bậc hai và các tư tế canh ngưỡng cửa, phải đem ra khỏi đền thờ ĐỨC CHÚA mọi đồ vật đã làm để kính thần Ba-an, thần A-sê-ra và toàn thể thiên binh. Vua thiêu huỷ các đồ vật đó ở ngoài Giê-ru-sa-lem, trong các cánh đồng Kít-rôn, rồi đem tro về Bết Ên. 5Vua dẹp bỏ hàng tư tế bất hợp pháp mà các vua Giu-đa đã lập; chúng đã đốt hương trên các tế đàn ở nơi cao, trong các thành của Giu-đa và vùng ngoại ô Giê-ru-sa-lem; vua cũng đã dẹp bỏ những kẻ đốt hương kính thần Ba-an, kính mặt trời, mặt trăng, các chòm sao và toàn thể thiên binh. 6Vua đưa cột thờ ra khỏi Nhà ĐỨC CHÚA, khỏi Giê-ru-sa-lem, đưa đến thung lũng Kít-rôn; vua thiêu huỷ cột thờ đó trong thung lũng Kít-rôn, biến thành tro, rồi vứt tro ấy vào mồ tập thể. 7Vua phá huỷ những nơi chứa trai điếm trong Nhà ĐỨC CHÚA, nơi phụ nữ dệt khăn áo cho thần A-sê-ra.8Vua đưa mọi tư tế từ các thành của Giu-đa về, và làm ô uế các tế đàn ở nơi cao, chỗ các tư tế ấy đã đốt hương, từ Ghe-va đến Bơ-e Se-va. Vua phá huỷ các tế đàn ở nơi cao kính các thần dê, chỗ vào Cửa Giơ-hô-su-a, -tên ông thị trưởng của thành-, nằm phía trái khi người ta vào cửa thành. 9Nhưng các tư tế của những tế đàn ở nơi cao không được lên bàn thờ ĐỨC CHÚA ở Giê-ru-sa-lem, mà chỉ được ăn bánh không men ở giữa anh em của họ. 10Vua làm ô uế Tô-phét trong thung lũng Ben Hin-nôm, để đừng có ai làm lễ thiêu con trai, con gái mình mà kính thần Mô-léc. 11Vua dẹp bỏ những con ngựa mà các vua Giu-đa đã dâng kính mặt trời, chỗ vào Nhà ĐỨC CHÚA, gần phòng thái giám Nơ-than Me-léc, trong dãy nhà phụ thuộc; vua cũng phóng hoả đốt xe của mặt trời. 12Các tế đàn ở trên mái nhà, tại phòng trên của vua A-khát mà các vua Giu-đa đã lập, cũng như các tế đàn mà vua Mơ-na-se đã lập trong hai sân Nhà ĐỨC CHÚA, thì vua đã phá huỷ, đập bể tại chỗ, rồi vứt các mảnh vụn xuống suối Kít-rôn. 13Vua làm ô uế các tế đàn ở nơi cao, đối diện với Giê-ru-sa-lem, phía nam Núi Tàn Phá, đó là những tế đàn mà vua Sa-lô-môn, vua Ít-ra-en, đã xây kính các thần: Át-tô-rét, đồ gớm ghiếc của dân Xi-đôn, Cơ-mốt, đồ gớm ghiếc của Mô-áp, và Min-côm, đồ ghê tởm của con cái Am-mon. 14Vua đập tan các trụ đá, bổ các cột thờ và chất đầy xương người vào chỗ đó.
Việc cải cách lan rộng tới vương quốc miền Bắc (2 Sb 34:6-7)
15Vua cũng phá huỷ tế đàn ở Bết Ên và tế đàn ở nơi cao mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã lập, -vua này đã lôi kéo Ít-ra-en phạm tội. Vua thiêu huỷ tế đàn ở nơi cao, biến thành tro, và thiêu huỷ cột thờ.16Khi quay lại, vua Giô-si-gia nhìn thấy những mồ mả tại đó, ở trên núi. Vua sai người đi quật mả lấy xương cốt ra, đốt trên tế đàn. Như vậy, vua đã làm ô uế tế đàn đó, theo lời của ĐỨC CHÚA mà người của Thiên Chúa đã lớn tiếng loan báo, ông đã lớn tiếng loan báo những điều ấy. 17Vua hỏi: "Lăng mà ta đang thấy đó là lăng nào vậy? " Các người trong thành thưa: "Đó là mộ người của Thiên Chúa đã từ Giu-đa đến và đã lớn tiếng loan báo những điều ấy, những điều mà vua đã thực hiện để phá tế đàn Bết Ên. 18Vua nói: "Hãy để yên người ở đó; đừng ai đụng đến xương cốt của người." Người ta đã để nguyên xương cốt của ông, cũng như xương cốt của ngôn sứ xuất thân từ xứ Sa-ma-ri.
19Vua Giô-si-gia cũng dẹp mọi nhà cửa phụ thuộc các tế đàn ở nơi cao trong các thành của Sa-ma-ri, do các vua Ít-ra-en dựng lên để trêu giận ĐỨC CHÚA. Đối với những nơi đó, vua đã xử sự hệt như đối với Bết Ên. 20Mọi tư tế của các tế đàn ở nơi cao đang có mặt ở đó đã bị vua sát tế trên các tế đàn; vua đã thiêu huỷ xương người trên đó, rồi trở về Giê-ru-sa-lem.
35:1,18-19)
21Vua truyền lệnh sau đây cho toàn dân: "Hãy cử hành lễ Vượt Qua kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, theo nghi thức ghi chép trong sách Giao Ước này." 22Người ta chưa bao giờ cử hành một lễ Vượt Qua nào như thế từ ngày các thủ lãnh cai trị Ít-ra-en, cũng như suốt thời các vua Ít-ra-en và các vua Giu-đa. 23Mãi đến năm thứ mười tám triều Giô-si-gia, người ta mới cử hành lễ Vượt Qua kính ĐỨC CHÚA như vậy tại Giê-ru-sa-lem.
Kết luận về việc cải cách tôn giáo
24Ngoài ra, vua Giô-si-gia còn khử trừ các cô đồng và thầy bói, các tượng thần, các ngẫu tượng và mọi đồ gớm ghiếc trông thấy ở xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, để thực hiện những lời của Lề Luật chép trong sách mà tư tế Khin-ki-gia-hu đã tìm thấy trong Nhà ĐỨC CHÚA. 25Trước vua, không có vua nào đã trở lại với ĐỨC CHÚA hết lòng, hết dạ và hết sức mình, theo đúng Luật Mô-sê, như vua; và sau vua, cũng chẳng thấy xuất hiện vua nào được như vua.26Nhưng ĐỨC CHÚA không nguôi cơn thịnh nộ của Người, cơn thịnh nộ đã bừng lên chống lại Giu-đa, vì những hành động của vua Mơ-na-se đã trêu giận Người. 27ĐỨC CHÚA phán: "Ta cũng sẽ đẩy cả Giu-đa đi cho khuất nhan Ta, như Ta đã đẩy Ít-ra-en đi; Ta sẽ từ bỏ Giê-ru-sa-lem, thành Ta đã chọn, cũng như Nhà mà Ta đã nói: Danh Ta sẽ ngự ở đó."
35:20- 361)
28Các truyện còn lại của vua Giô-si-gia, và mọi việc vua đã làm, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao?
29Vào thời vua Giô-si-gia, vua Ai-cập là Pha-ra-ô Nơ-khô lên gặp vua Át-sua bên bờ sông Êu-phơ-rát. Vua Giô-si-gia đi đón vua Nơ-khô; nhưng vua Nơ-khô giết chết vua Giô-si-gia ở Mơ-ghít-đô, khi vừa thấy vua này. 30Các thuộc hạ của vua này chở thi hài vua lên xe, rồi đưa từ Mơ-ghít-đô về Giê-ru-sa-lem và chôn trong mộ của vua. Dân trong xứ chọn con vua Giô-si-gia là Giơ-hô-a-khát, xức dầu tôn làm vua kế vị vua cha.
4. GIÊ-RU-SA-LEM BỊ TÀN PHÁ
Vua Giơ-hô-a-khát cai trị Giu-đa (609) (2 Sb 36:2-4)
31Giơ-hô-a-khát lên ngôi vua khi được hai mươi ba tuổi, và trị vì ba tháng ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Kha-mu-tan, con gái ông Giếc-mơ-gia-hu; bà là người Líp-na. 32Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA hệt như tổ tiên vua.33Pha-ra-ô Nơ-khô xiềng vua lại ở Ríp-la, trong xứ Kha-mát, không cho vua trị vì ở Giê-ru-sa-lem, và bắt xứ phải nộp ba ngàn ký bạc và ba mươi ký vàng. 34Pha-ra-ô Nơ-khô đặt con vua Giô-si-gia là En-gia-kim làm vua kế vị vua cha là Giô-si-gia, và cho đổi tên là Giơ-hô-gia-kim. Pha-ra-ô bắt vua Giơ-hô-a-khát đưa sang Ai-cập, và vua này chết tại đó.
35Vua Giơ-hô-gia-kim nộp vàng bạc cho Pha-ra-ô. Nhưng để có thể nộp số bạc theo lệnh Pha-ra-ô, vua bắt dân trong xứ phải đóng thuế: vua đòi dân trong xứ, mỗi người theo khả năng mình, phải góp vàng bạc để nộp cho Pha-ra-ô Nơ-khô.
Vua Giơ-hô-gia-kim cai trị Giu-đa (609-598) (2 Sb 36:5-8)
36Giơ-hô-gia-kim lên ngôi vua khi được hai mươi lăm tuổi, và trị vì mười một năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Dơ-vi-đa, con gái ông Pơ-đa-gia; bà là người Ru-ma. 37Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, hệt như tổ tiên vua.5Các truyện còn lại của vua Giơ-hô-gia-kim và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 6Vua Giơ-hô-gia-kim đã an nghỉ với tổ tiên, và con vua là Giơ-hô-gia-khin lên ngôi kế vị.
7Vua Ai-cập không còn ra khỏi xứ mình nữa, vì vua Ba-by-lon đã lấy tất cả những gì thuộc về vua Ai-cập từ Suối Ai-cập cho đến sông Êu-phơ-rát.
Dẫn vào triều vua Giơ-hô-gia-khin (598) (2 Sb 36:9)
8Giơ-hô-gia-khin lên ngôi vua khi được mười tám tuổi, và trị vì ba tháng ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Nơ-khút-ta, con gái ông En-na-than, bà là người Giê-ru-sa-lem. 9Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, hệt như vua cha.Cuộc lưu đày thứ nhất (2 Sb 36:10)
10Khi ấy, các thuộc hạ của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, tiến lên đánh Giê-ru-sa-lem, và thành bị vây hãm. 11Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đến đánh thành, trong khi các thuộc hạ của vua vây hãm thành. 12Vua Giơ-hô-gia-khin, vua Giu-đa, cùng với mẹ vua, các thuộc hạ, các tướng lãnh và thái giám của vua ra hàng vua Ba-by-lon. Vua đã bị bắt vào năm thứ tám triều vua Ba-by-lon.13Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đưa mọi kho tàng của Nhà ĐỨC CHÚA và các kho tàng của hoàng cung ra khỏi đó. Vua đập bể mọi đồ bằng vàng mà vua Sa-lô-môn, vua Ít-ra-en, đã làm để dùng trong đền thờ ĐỨC CHÚA, như ĐỨC CHÚA đã phán. 14Vua bắt toàn thể Giê-ru-sa-lem, mọi tướng lãnh và mọi dũng sĩ đi đày, tất cả là mười ngàn người phải đi đày, cùng với mọi thợ rèn và thợ làm khoá; không sót lại một ai, trừ dân cùng đinh trong xứ. 15Vua đày vua Giơ-hô-gia-khin sang Ba-by-lon; vua đày mẹ vua này, các cung phi, các thái giám và phú hào trong xứ, từ Giê-ru-sa-lem sang Ba-by-lon. 16Tất cả những người có thế giá, bảy ngàn người, thợ rèn và thợ làm khoá, một ngàn người, và tất cả các binh lính cũng bị vua đày sang Ba-by-lon.
17Vua Ba-by-lon đặt ông Mát-tan-gia là chú của vua Giơ-hô-gia-khin làm vua thay thế; vua Ba-by-lon đổi tên vua Mát-tan-gia là Xít-ki-gia-hu.
598-587) (2 Sb 36:11-12;Gr 52:1-3a)
18Xít-ki-gia-hu lên ngôi vua khi được hai mươi mốt tuổi, và trị vì mười một năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ của vua là Kha-mi-tan, con gái ông Giếc-mơ-gia-hu; bà là người Líp-na. 19Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, hệt như vua Giơ-hô-gia-kim. 20Chính vì ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ mà sự việc đã xảy ra như thế tại Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, cho đến khi người xua đuổi họ đi khuất nhan Người.
Giê-ru-sa-lem bị vây hãm (2 Sb 36:13-21;Gr 52:3b-11)
1Ngày mồng mười tháng mười, năm thứ chín triều Xít-ki-gia-hu, Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, cùng toàn thể đạo quân tiến đánh Giê-ru-sa-lem. Vua đóng trại và đắp chiến luỹ chung quanh để đánh thành. 2Thành bị vây hãm cho đến năm thứ mười một triều vua Xít-ki-gia-hu. 3Vào mồng chín tháng tư, nạn đói hoành hành trong thành, và không có bánh cho dân trong xứ. 4Thành bị chọc thủng một lỗ. Đang đêm, tất cả các binh lính đi ra theo con đường cửa giữa hai bức tường, gần vườn của vua, -bấy giờ quân Can-đê đang bao vây thành-, rồi họ đi theo con đường hướng tới A-ra-va. 5Đạo quân Can-đê rượt theo và đuổi kịp vua trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô; toàn thể đạo quân của vua bỏ vua chạy tán loạn. 6Chúng bắt vua và đem lên Ríp-la gặp vua Ba-by-lon, chúng tuyên án kết tội vua. 7Chúng cắt cổ những người con của vua Xít-ki-gia-hu trước mắt vua cha. Rồi vua Ba-by-lon đâm mù mắt vua Xít-ki-gia-hu, lấy hai dây xích đồng xiềng vua lại và điệu về Ba-by-lon.Giê-ru-sa-lem bị cướp phá. Cuộc lưu đày thứ hai. (Gr 52:12-27)
8Ngày mồng bảy tháng năm, -đó là năm thứ mười chín triều Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon-, quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan, thuộc hạ của vua Ba-by-lon, vào Giê-ru-sa-lem. 9Ông đốt Nhà ĐỨC CHÚA, đền vua và mọi nhà cửa ở Giê-ru-sa-lem; ông còn phóng hoả đốt mọi dinh thự các nhà quyền quý. 10Toàn thể đạo quân Can-đê, dưới quyền quan chỉ huy thị vệ, phá huỷ các tường thành chung quanh Giê-ru-sa-lem. 11Quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan bắt những người dân còn sót lại trong thành, những người đã đào ngũ theo vua Ba-by-lon, và những người thợ thủ công còn sót lại phải đi đày. 12Nhưng quan chỉ huy thị vệ chừa lại một phần dân cùng đinh trong xứ để trồng nho và canh tác.13Quân Can-đê đập tan các cột đồng của Nhà ĐỨC CHÚA, các giàn và bể nước bằng đồng trong Nhà ĐỨC CHÚA, rồi mang đồng về Ba-by-lon. 14Rồi chúng lấy nồi, xẻng, dao, chén và mọi đồ bằng đồng dùng vào việc tế tự. 15Quan chỉ huy thị vệ cũng lấy lư hương và bình rảy, các đồ này được làm bằng vàng bằng bạc. 16Còn hai cái cột của bể nước duy nhất và các giàn mà vua Sa-lô-môn đã làm cho Nhà ĐỨC CHÚA, thì người ta không thể xác định được số lượng đồng của tất cả những đồ vật đó. 17Mỗi cột cao chín thước; bên trên cột có đầu trụ trạm trổ bằng đồng, cao một thước rưỡi. Bên trên đầu trụ, có một màng lưới và những trái thạch lựu ở chung quanh; tất cả đều bằng đồng. Cột thứ hai cũng vậy. Trên màng lưới. ..
18Quan chỉ huy thị vệ bắt giữ tư tế thủ lãnh Xơ-ra-gia, tư tế bậc hai Xơ-phan-gia-hu và ba tư tế canh ngưỡng cửa. 19Còn trong thành, ông bắt giữ một thái giám chỉ huy các binh lính, năm cận thần của vua người ta tìm thấy trong thành, viên ký lục của tướng lãnh quân đội lo việc tuyển quân trong xứ, và sáu mươi người dân trong xứ người ta tìm thấy trong thành. 20Quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan, bắt những người ấy và điệu tới vua Ba-by-lon ở Ríp-la. 21Vua Ba-by-lon cho người đánh đập và giết chết họ ở Ríp-la, trong xứ Kha-mát. Và Giu-đa bị đày biệt xứ.
Ông Gơ-đan-gia-hu, tổng trấn xứ Giu-đa (Gr 40:7-9;41:1-3)
22Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đã đặt ông Gơ-đan-gia-hu, con ông A-khi-cam, cháu ông Sa-phan, làm tổng trấn cai trị dân còn sót lại trong xứ Giu-đa mà vua đã để lại. 23Mọi tướng lãnh chỉ huy các toán quân, và những người của họ nghe tin là vua Ba-by-lon đã đặt ông Gơ-đan-gia-hu làm tổng trấn, thì đến gặp ông Gơ-đan-gia-hu ở Mít-pa: đó là ông Gít-ma-ên, con ông Nơ-than-gia, ông Giô-kha-nan, con ông Ca-rê-ác, ông Xơ-ra-gia, con ông Tan-khu-mét người Nơ-tô-pha, ông Gia-a-dan-gia-hu, người Ma-a-kha, họ và các người của họ. 24Ông Gơ-đan-gia-hu thề với họ và các người của họ rằng: "Đừng sợ các thuộc hạ của người Can-đê, hãy ở lại trong xứ và phục dịch vua Ba-by-lon, thì các ông sẽ được thoải mái."25Tháng bảy, ông Gít-ma-ên, con ông Nơ-than-gia, cháu ông Ê-li-sa-ma, thuộc hoàng tộc, cùng với mười người đến đánh đập và giết chết ông Gơ-đan-gia-hu cũng như các người Giu-đa và Can-đê đang ở với ông tại Mít-pa. 26Toàn dân từ nhỏ đến lớn, cũng như những tướng lãnh chỉ huy các toán quân, lên đường sang Ai-cập vì sợ người Can-đê.