I. NHỮNG DIỄN TỪ MỞ ĐẦU
Khung cảnh thời gian và không gian
1Đây là những lời ông Mô-sê nói với toàn thể Ít-ra-en, ở bên kia sông Gio-đan, trong sa mạc, trong thung lũng A-ra-va, đối diện với Xúp, giữa Pa-ran, Tô-phen, La-van, Kha-xê-rốt và Đi Da-háp. 2Từ núi Khô-rếp đến Ca-đê Bác-nê-a, qua đường núi Xê-ia, là mười một ngày đường. 3Năm thứ bốn mươi, tháng thứ mười một, ngày thứ nhất trong tháng, ông Mô-sê nói với con cái Ít-ra-en, chiếu theo tất cả những gì ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông nói với họ. 4Ông đã đánh bại Xi-khôn, vua người E-mô-ri, đóng đô ở Khét-bôn, và tại Ét-re-i, đã đánh bại Ốc, vua miền Ba-san, đóng đô ở Át-ta-rốt. 5Sau đó, ở bên kia sông Gio-đan, trong đất Mô-áp, ông Mô-sê bắt đầu trình bày luật sau đây. Ông nói:Những chỉ thị cuối cùng ở núi Khô-rếp (Xh 18: 13 -27 )
6"ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng ta, đã phán với chúng ta tại núi Khô-rếp như sau: "Các ngươi ở núi này đã lâu rồi. 7Hãy chuyển hướng và lên đường, đi tới núi người E-mô-ri, và tới các dân chung quanh, ở thung lũng A-ra-va, ở miền núi, miền Sơ-phê-la, miền Ne-ghép, miền duyên hải, tới đất người Ca-na-an, núi Li-băng, cho đến Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát. 8Đây, Ta trao đất đó cho các ngươi, hãy vào và chiếm hữu đất mà ĐỨC CHÚA đã thề với cha ông các ngươi, là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho họ và dòng dõi họ sau này."9Thời ấy, tôi đã nói với anh em: "Một mình tôi không thể gánh vác anh em được. 10ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em nên đông đúc, và hôm nay, coi đó: anh em nhiều như sao trên trời. 11Nguyện ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, tăng số anh em lên gấp ngàn lần và chúc phúc cho anh em như Người đã phán với anh em! 12Làm sao một mình tôi gánh được những phiền hà, yêu sách, tranh tụng của anh em? 13Mỗi chi tộc của anh em hãy đề cử những người khôn ngoan, thông minh và từng trải, và tôi sẽ đặt họ làm đầu anh em." 14Anh em đã trả lời tôi rằng: "Điều ông đề nghị làm, hay đó! " 15Tôi đã chọn những người đứng đầu các chi tộc của anh em, là những người khôn ngoan, từng trải, và đặt họ làm đầu anh em, làm người chỉ huy một ngàn, chỉ huy một trăm, chỉ huy năm mươi, chỉ huy mười người, và làm ký lục cho mỗi chi tộc của anh em. 16Thời ấy, tôi đã truyền cho các thẩm phán của anh em rằng: "Các ông hãy nghe những điều anh em đồng bào các ông kiện tụng, và hãy xử công minh giữa một người đồng bào với một người đồng bào, hoặc với một ngoại kiều ở với người ấy. 17Các ông đừng thiên vị ai trong khi xét xử: hãy nghe người nhỏ cũng như người lớn, đừng sợ ai, vì xét xử là việc của Thiên Chúa. Có vụ nào khó quá đối với các ông, thì các ông hãy trình bày với tôi, tôi sẽ nghe vụ đó." 18Thời ấy, tôi đã truyền cho anh em mọi điều anh em phải làm.
Ở Ca-đê, dân không chịu tin vào ĐỨC CHÚA (Đn 13: 1-33 )
19Chúng ta đã lên đường từ Khô-rếp và đã đi qua sa mạc mênh mông khủng khiếp ấy mà anh em đã thấy, trên đường tới miền núi của người E-mô-ri, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, đã truyền cho chúng ta, và chúng ta đã đến Ca-đê Bác-nê-a. 20Tôi đã nói với anh em: "Anh em đã tới miền núi của người E-mô-ri, miền núi mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ban cho chúng ta. 21Coi đó: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã trao đất này cho anh (em); hãy lên và chiếm hữu, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã phán với anh (em). Đừng sợ, đừng hãi." 22Tất cả anh em đã đến gặp tôi và nói: "Chúng ta hãy phái người đi trước chúng ta để thăm dò đất cho chúng ta; họ sẽ báo cáo cho chúng ta về con đường chúng ta phải đi qua và về các thành chúng ta sẽ đến." 23Lời ấy vừa lòng tôi, và tôi đã chọn giữa anh em mười hai người, mỗi chi tộc một người. 24Họ đã chuyển hướng và lên núi. Khi tới thung lũng Ét-côn, họ đã do thám thung lũng ấy. 25Tay họ đã lấy hoa trái miền ấy và đưa xuống cho chúng ta. Họ đã báo cáo cho chúng ta, và nói: "Miền đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ban cho chúng ta, tốt tươi thật! " 26Nhưng anh em đã không muốn lên và đã cưỡng lệnh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em. 27Anh em đã lẩm bẩm trong lều trại và nói: "Chính vì ĐỨC CHÚA ghét chúng ta mà Người đã đưa chúng ta ra khỏi đất Ai-cập, để trao chúng ta vào tay người E-mô-ri và tiêu diệt chúng ta. 28Chúng ta sắp lên chỗ nào đây? Anh em chúng ta đã làm cho chúng ta nản lòng khi nói rằng: "Dân đó lớn và cao hơn chúng ta. Các thành thì lớn, tường luỹ ngất trời. Chúng tôi cũng thấy ở đó con cái A-nác nữa."29Tôi đã bảo anh em: "Đừng run khiếp, đừng sợ chúng! 30ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, Đấng đi phía trước anh em, sẽ chiến đấu cho anh em, đúng như Người đã làm cho anh em tại Ai-cập trước mắt anh em, 31và trong sa mạc, nơi anh (em) thấy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mang anh (em) như một người mang con mình, suốt con đường anh em đã đi cho tới khi anh em đến nơi này." 32Nhưng trong việc ấy anh em đã không tin vào ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, 33Đấng đi phía trước anh em trên đường để tìm chỗ cho anh em cắm lều; ban đêm, Người ở trong lửa để cho anh em thấy đường anh em đi, và ban ngày, Người ở trong đám mây.
Huấn thị của ĐỨC CHÚA tại Ca-đê (Đn 14: 20 -45 )
34ĐỨC CHÚA đã nghe thấy giọng nói của anh em, Người nổi giận và thề rằng: 35"Không một người nào thuộc thế hệ gian ác này sẽ được thấy miền đất tốt tươi Ta đã thề sẽ ban cho cha ông các ngươi, 36ngoại trừ Ca-lếp, con của Giơ-phun-ne: nó sẽ được thấy đất ấy, và đất nó đã giẫm lên, Ta sẽ ban cho nó và các con nó, bởi vì nó đã một lòng theo ĐỨC CHÚA." 37Vì anh em, ĐỨC CHÚA cũng nổi cơn thịnh nộ cả với tôi, Người phán: "Cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ không được vào đó! 38Giô-suê, con của Nun, kẻ chầu chực trước mặt ngươi, sẽ được vào đó. Hãy làm cho nó nên mạnh mẽ, vì chính nó sẽ cho Ít-ra-en hưởng đất ấy làm gia nghiệp. 39Về phần con cái các ngươi mà các ngươi nói: "Chúng sẽ bị giặc bắt", và con trai các ngươi, những đứa hôm nay chưa biết phân biệt tốt xấu, chúng sẽ được vào đó. Ta sẽ ban cho chúng đất ấy và chúng sẽ chiếm hữu. 40Còn các ngươi hãy chuyển hướng và lên đường đi sa mạc, theo hướng Biển Sậy."41Anh em đã trả lời và nói với tôi: "Chúng tôi đã phạm tội nghịch cùng ĐỨC CHÚA, chúng tôi sẽ lên và sẽ chiến đấu theo tất cả những gì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng tôi, đã truyền cho chúng tôi." Mỗi người trong anh em đã đeo võ khí và tưởng lên núi là việc dễ dàng. 42ĐỨC CHÚA đã phán với tôi: "Hãy bảo chúng: các ngươi đừng lên, đừng chiến đấu, vì Ta không ở giữa các ngươi. Đừng để quân địch đánh bại các ngươi! " 43Tôi đã bảo anh em mà anh em không nghe, anh em đã cưỡng lệnh ĐỨC CHÚA, đã cả gan lên núi. 44Người E-mô-ri ở miền núi ấy ra đánh anh em, đuổi anh em như ong đuổi, và đánh tan anh em tại Xê-ia đến tận Khoóc-ma. 45Khi trở về, anh em đã khóc lóc trước mặt ĐỨC CHÚA, nhưng ĐỨC CHÚA đã không nghe tiếng anh em và không để tai nghe anh em. 46Chính vì vậy mà anh em đã phải ở lại Ca-đê như thế.
Từ Ca-đê đến thung lũng Ác-nôn
1Chúng ta đã chuyển hướng và lên đường đi sa mạc, theo hướng Biển Sậy, như ĐỨC CHÚA đã phán với tôi, và chúng ta đã đi vòng quanh miền núi Xê-ia lâu ngày. 2ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng: 3"Các ngươi đi vòng quanh núi này đã lâu rồi, hãy chuyển hướng về phía bắc. 4Ngươi hãy truyền cho dân rằng: Các ngươi sắp đi qua lãnh thổ của anh em các ngươi là con cái Ê-xau, những người ở Xê-ia. Chúng sẽ sợ các ngươi, nhưng các ngươi phải rất ý tứ: 5Đừng khiêu khích chúng, vì Ta sẽ không cho các ngươi một phần đất nào của chúng, dù là chỗ đặt bàn chân: Ta đã ban núi Xê-ia cho Ê-xau làm sở hữu. 6Lương thực các ngươi ăn, các ngươi sẽ dùng bạc mà mua của chúng; cả nước các ngươi uống, các ngươi cũng sẽ dùng bạc mà mua của chúng. 7Thật vậy, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của (các) ngươi, đã chúc phúc cho (các) ngươi trong mọi việc tay (các) ngươi làm, Người đã biết cuộc hành trình của (các) ngươi trong sa mạc mênh mông ấy; đã bốn mươi năm ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của (các) ngươi, ở với (các) ngươi, và (các) ngươi đã chẳng thiếu thốn điều gì."8Rời bỏ anh em chúng ta là con cái Ê-xau, những người ở Xê-ia, chúng ta đã đi qua con đường thung lũng A-ra-va, con đường bắt đầu từ Ê-lát và E-xi-ôn Ghe-ve. Rồi chúng ta chuyển hướng và đi qua con đường sa mạc Mô-áp. 9ĐỨC CHÚA phán với tôi: "Đừng gây hấn với Mô-áp, đừng khiêu chiến với chúng, vì Ta sẽ không cho ngươi một phần đất nào của chúng làm sở hữu: Ta đã ban A cho con cái Lót làm sở hữu. 10-Trước kia người Ê-mim ở đất ấy, họ là một dân lớn, đông và cao như người A-nác. 11Như người A-nác, họ cũng được coi là người Ra-pha, nhưng người Mô-áp gọi họ là người Ê-mim. 12Tại Xê-ia trước kia có người Khô-ri ở, nhưng con cái Ê-xau đã trục xuất họ, đã tiêu diệt họ khi tới đó và ở thế chỗ họ, như Ít-ra-en đã làm trong đất họ chiếm hữu, đất mà ĐỨC CHÚA đã ban cho họ.- 13Giờ đây các ngươi hãy đứng lên và qua thung lũng De-rét."
Chúng ta đã qua thung lũng De-rét.
14Thời gian chúng ta đi từ Ca-đê Bác-nê-a cho đến khi chúng ta qua thung lũng De-rét là ba mươi tám năm, cho đến khi tất cả thế hệ các chiến sĩ biến hết khỏi trại, như ĐỨC CHÚA đã thề với họ. 15Bàn tay ĐỨC CHÚA cũng đè trên họ để loại họ ra khỏi trại, cho đến khi họ biến hết.16Khi các chiến sĩ đã chết, đã biến hết không còn trong dân nữa, 17thì ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng: 18"Hôm nay ngươi sắp đi qua lãnh thổ Mô-áp, qua A. 19Ngươi sẽ đến gần đất con cái Am-mon. Đừng gây hấn, đừng khiêu chiến với chúng, vì Ta sẽ không cho ngươi phần đất nào của chúng làm sở hữu: Ta đã ban đất ấy cho con cái Am-mon làm sở hữu. 20-Cả đất ấy cũng được coi là đất của người Ra-pha; trước kia người Ra-pha đã ở đó, người Am-mon gọi họ là Dam-dum-mim. 21Họ là một dân lớn, đông và cao như người A-nác, nhưng ĐỨC CHÚA đã tiêu diệt họ, khi người Am-mon đến; những người này đã trục xuất họ và ở thế chỗ họ. 22Người đã làm như thế cho con cái Ê-xau, những người ở Xê-ia, khi Người tiêu diệt người Khô-ri, lúc con cái Ê-xau đến: những người này đã trục xuất họ và ở thế chỗ họ cho đến ngày nay. 23Còn người A-vim, những người ở trong các thôn ấp về phía Ga-da cũng thế: người Cáp-to phát xuất từ Cáp-to đã tiêu diệt họ và ở thế chỗ họ.- 24Các ngươi hãy đứng dậy, lên đường và qua thung lũng Ác-nôn. Hãy coi: Ta trao Xi-khôn, vua Khét-bôn, người E-mô-ri, và đất vua ấy vào tay (các) ngươi. Hãy bắt đầu chiếm hữu đất ấy và hãy khiêu chiến với chúng. 25Hôm nay, Ta sẽ làm cho các dân khắp thiên hạ kinh khiếp sợ hãi (các) ngươi ra mặt: khi nghe nói đến (các) ngươi, chúng sẽ run rẩy, rụng rời trước mặt (các) ngươi."
Đánh chiếm vương quốc vua Xi-khôn (Đn 21: 21 -30 )
26Từ sa mạc Cơ-đê-mốt, tôi đã sai sứ giả đến với Xi-khôn, vua Khét-bôn, nói những lời hoà bình như sau: 27"Xin cho tôi mượn đường qua đất ông; tôi sẽ đi trên đường, không quẹo phải quẹo trái. 28Lương thực tôi ăn, ông sẽ bán cho tôi đổi lấy bạc; nước tôi uống, ông sẽ cung cấp cho tôi đổi lấy bạc. Tôi chỉ xin đi bộ qua thôi - 29con cái Ê-xau là những người ở Xê-ia, và người Mô-áp là những người ở A, đã cho phép tôi đi qua đất họ- cho đến khi tôi qua sông Gio-đan, vào đất ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng tôi, ban cho chúng tôi."30Nhưng Xi-khôn, vua Khét-bôn, đã không muốn cho chúng ta đi qua đất nó, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã làm cho thần trí nó ra cứng cỏi và lòng dạ nó ra chai đá, để trao nó vào tay anh (em), như anh (em) thấy hôm nay. 31ĐỨC CHÚA phán với tôi: "Hãy coi: Ta bắt đầu trao Xi-khôn và đất nó cho ngươi. Hãy bắt đầu đánh chiếm và chiếm cứ đất nó." 32Xi-khôn, nó và toàn dân nó đã ra nghênh chiến với chúng ta tại Gia-hát. 33ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, đã trao nó cho chúng ta, và chúng ta đã đánh bại nó, con cái nó và toàn dân nó. 34Thời ấy, chúng ta đã chiếm tất cả các thành của nó và đã tru hiến mọi thành: đàn ông, đàn bà, con trẻ; chúng ta đã không để lại một ai sống sót. 35Chúng ta chỉ cướp lấy cho mình gia súc và chiến lợi phẩm của các thành chúng ta đã chiếm được. 36Từ A-rô-e trên mé thung lũng Ác-nôn, và từ thành ở trong thung lũng, cho đến miền Ga-la-át, không có thành nào chúng ta không thể đánh chiếm được: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, đã trao tất cả cho chúng ta. 37Chỉ có đất của con cái Am-mon là anh (em) đã không đến gần: tất cả triền thung lũng Giáp-bốc, các thành miền núi và tất cả những nơi mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, đã cấm.
Đánh chiếm vương quốc vua Ốc (Đn 21: 31 -35 )
1Chúng ta đã chuyển hướng và đi lên phía miền Ba-san. Ốc, vua miền Ba-san, nó và toàn dân nó đã ra nghênh chiến với chúng ta tại Ét-re-i. 2ĐỨC CHÚA phán với tôi: "Đừng sợ nó, vì Ta đã trao nó cùng với toàn dân nó và đất nó vào tay ngươi; ngươi sẽ xử với nó như đã xử với Xi-khôn, vua người E-mô-ri, đóng đô ở Khét-bôn." 3ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, cũng đã trao Ốc, vua miền Ba-san, và toàn dân nó vào tay chúng ta; chúng ta đã đánh bại nó, không để lại cho nó một ai sống sót. 4Thời ấy, chúng ta đã chiếm mọi thành của nó, không có thành nào mà chúng ta không lấy của chúng: sáu mươi thành, tức là tất cả vùng Ác-gốp ở miền Ba-san, vương quốc của Ốc. 5Tất cả đều là những thành kiên cố, có tường cao, có cửa đóng then cài, không kể những thành bỏ ngỏ, nhiều lắm. 6Chúng ta đã tru hiến những thành ấy, như chúng ta đã xử với Xi-khôn, vua Khét-bôn; chúng ta đã tru hiến mọi thành: đàn ông, đàn bà, con trẻ. 7Nhưng tất cả gia súc và chiến lợi phẩm của các thành, thì chúng ta đã lấy cho mình.8Thời ấy, chúng ta đã lấy của hai vua người E-mô-ri vùng đất ở bên kia sông Gio-đan, từ thung lũng Ác-nôn đến núi Khéc-môn. - 9Người Xi-đôn gọi núi Khéc-môn là Xia-giôn, còn người E-mô-ri gọi là Xơ-nia.- 10Chúng ta đã lấy tất cả các thành vùng Cao Nguyên, tất cả miền Ga-la-át, và tất cả miền Ba-san đến tận Xan-kha và Ét-re-i, tức là các thành ở miền Ba-san, vương quốc của Ốc. - 11Thật vậy, Ốc, vua miền Ba-san, là người cuối cùng trong số người Ra-pha còn sống sót; giường của nó, giường bằng sắt, chẳng phải là cái giường người ta còn thấy ở thành Ráp-ba của con cái Am-mon sao? Giường ấy dài bốn thước rưỡi, rộng hai thước, tính bằng thước người ta quen dùng.
Chia đất bên kia sông Gio-đan (Đn 32: 33 -42 )
12Thời ấy, chúng ta đã chiếm hữu đất này. Tôi đã cho chi tộc Rưu-vên và chi tộc Gát vùng đất từ A-rô-e bên thung lũng Ác-nôn, cùng với một nửa miền núi Ga-la-át và các thành ở đó. 13Phần còn lại của miền Ga-la-át và tất cả miền Ba-san, vương quốc của Ốc, thì tôi đã cho một nửa chi tộc Mơ-na-se -tất cả vùng Ác-gốp, tất cả miền Ba-san, người ta gọi là đất của người Ra-pha.- 14Gia-ia, con của Mơ-na-se, đã lấy tất cả vùng Ác-gốp cho đến lãnh thổ người Gơ-sua và người Ma-a-kha, và đã lấy tên mình mà đặt cho những vùng ấy của miền Ba-san, ngày nay vẫn còn gọi là "các trại của người Gia-ia". 15Tôi đã cho Ma-khia miền Ga-la-át. 16Còn chi tộc Rưu-vên và chi tộc Gát, thì tôi cho vùng đất từ miền Ga-la-át cho đến thung lũng Ác-nôn, lấy lòng thung lũng làm ranh giới, và cho đến thung lũng Giáp-bốc, ranh giới con cái Am-mon, 17cùng với thung lũng A-ra-va, lấy sông Gio-đan làm ranh giới, từ Kin-ne-rét cho đến biển A-ra-va, tức là Biển Muối, phía dưới sườn núi Pít-ga, về phía đông.Chỉ thị cuối cùng của ông Mô-sê (Đn 32: 20 -32 )
18Thời ấy, tôi đã truyền cho anh em rằng: "ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã cho anh em đất này để anh em chiếm hữu. Tất cả các dũng sĩ, anh em hãy cầm võ khí đi qua trước anh em mình là con cái Ít-ra-en. 19Chỉ có đàn bà con trẻ và các đàn vật của anh em -tôi biết là anh em có nhiều đàn vật- sẽ ở trong các thành tôi đã cho anh em, 20cho đến khi ĐỨC CHÚA ban cho anh em của anh em được an cư lạc nghiệp như anh em, và chính họ cũng chiếm hữu đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, ban cho họ ở bên kia sông Gio-đan; bấy giờ anh em mỗi người sẽ trở về phần đất sở hữu của mình, phần đất tôi đã cho anh em." 21Thời ấy, tôi đã truyền cho ông Giô-suê rằng: "Chính mắt anh đã thấy tất cả cách xử sự của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đối với hai vua ấy; ĐỨC CHÚA cũng sẽ xử sự như vậy với các vương quốc anh sắp đi qua. 22Anh em đừng sợ chúng, vì chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, chiến đấu cho anh em."23Thời ấy, tôi đã năn nỉ ĐỨC CHÚA rằng: 24"Lạy Chúa là ĐỨC CHÚA, Ngài đã bắt đầu cho tôi tớ Ngài thấy Ngài thật vĩ đại và tay Ngài mạnh mẽ. Có thần nào trên trời dưới đất thực hiện được những công trình và những chiến công như Ngài? 25Xin cho con được sang qua sông Gio-đan và nhìn thấy miền đất tốt tươi ở bên kia sông, miền núi tốt tươi ấy và núi Li-băng." 26Vì anh em, ĐỨC CHÚA bất bình với tôi, Người không nghe tôi; ĐỨC CHÚA phán với tôi: "Đủ rồi! Đừng bao giờ nói với Ta về chuyện ấy nữa! 27Hãy lên đỉnh Pít-ga, ngước mắt nhìn về phía tây, phía bắc, phía nam, phía đông, và mở mắt ra mà xem, vì ngươi sẽ không được sang qua sông Gio-đan này. 28Hãy truyền lệnh cho Giô-suê, hãy làm cho nó nên mạnh mẽ và can đảm, vì chính nó sẽ dẫn đầu dân này qua sông, và chính nó sẽ cho chúng hưởng đất mà ngươi sẽ thấy, làm gia nghiệp."
29Vậy chúng ta đã ở lại thung lũng, đối diện với Bết Pơ-o.
Giữ luật Chúa là khôn ngoan
1Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em. 2Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em. 3Chính mắt anh em đã thấy điều ĐỨC CHÚA làm tại Ba-an Pơ-o: mọi kẻ theo Ba-an Pơ-o thì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã tiêu diệt không cho sống giữa anh (em). 4Còn anh em, những kẻ gắn bó với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, thì hôm nay đều còn sống cả. 5Hãy xem: tôi đã dạy cho anh em những thánh chỉ và quyết định như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của tôi, đã truyền cho tôi, để anh em đem ra thực hành trong miền đất mà anh em sắp vào chiếm hữu. 6Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ nói: "Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh! " 7Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? 8Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?Mặc khải tại núi Khô-rếp
9Nhưng anh (em) hãy ý tứ và cẩn thận giữ mình đừng quên những điều mắt anh (em) đã thấy, và suốt đời, đừng để cho những điều ấy ra khỏi lòng anh (em); trái lại, anh (em) hãy dạy cho con cháu anh (em) biết. 10Ngày mà anh (em) đứng trước mặt ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), tại núi Khô-rếp, ĐỨC CHÚA đã phán bảo tôi: "Hãy tập hợp dân lại cho Ta; Ta sẽ cho chúng nghe những lời của Ta, để chúng học cho biết kính sợ Ta mọi ngày chúng sống trên mặt đất, và để chúng dạy cho con cái chúng." 11Anh em đã lại gần và đứng dưới chân núi; núi bốc lửa cao đến tận trời, trong bóng tối mây đen mù mịt. 12ĐỨC CHÚA phán với anh em từ trong đám lửa: anh em nghe thấy tiếng nói nhưng không thấy hình bóng nào, chỉ có tiếng thôi. 13Người đã thông báo cho anh em giao ước của Người, giao ước mà Người truyền cho anh em đem ra thực hành, đó là mười lời Người viết trên hai bia đá. 14Phần tôi, thời đó, ĐỨC CHÚA truyền cho tôi dạy anh em các thánh chỉ và quyết định, để anh em đem ra thực hành trong miền đất mà anh em sắp sang chiếm hữu.15Anh em hãy cẩn thận giữ mình: anh em đã không thấy hình bóng nào, ngày ĐỨC CHÚA phán với anh em tại núi Khô-rếp, từ trong đám lửa; 16vì thế đừng có ra hư hỏng mà làm cho mình một tượng mang hình ảnh bất cứ cái gì: hình người nam hay người nữ, 17hình bất cứ loài vật nào trên mặt đất, hình bất cứ loài chim chóc nào bay trên trời, 18hình bất cứ loài nào bò dưới đất, hình bất cứ loài cá nào ở trong nước phía dưới mặt đất. 19Khi anh (em) ngước mắt lên trời và thấy mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, toàn thể thiên binh, thì đừng bị lôi cuốn mà sụp xuống lạy và phụng thờ chúng. ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã phân chia chúng cho mọi dân thiên hạ. 20Còn anh em, thì ĐỨC CHÚA đã chọn lấy anh em và đưa ra khỏi cái lò nung sắt là Ai-cập, để anh em trở nên dân Người, nên cơ nghiệp của Người, như ngày nay.
Dân sẽ bị phạt và trở về với Chúa
21Vì anh em, ĐỨC CHÚA đã nổi cơn thịnh nộ với tôi, và Người đã thề là tôi sẽ không được sang sông Gio-đan và không được vào miền đất tốt tươi mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp. 22Tôi sắp phải chết tại đất này: tôi sẽ không được sang sông Gio-đan, còn anh em thì sắp sang và sẽ chiếm hữu miền đất tốt tươi ấy. 23Anh em hãy ý tứ đừng quên giao ước mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã lập với anh em, đừng làm tượng thờ mang hình ảnh bất cứ cái gì mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã cấm anh (em). 24Thật vậy, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), là một ngọn lửa thiêu, một vị thần ghen tương.25Khi anh em sinh con cháu và ở lâu trong xứ, nếu anh em ra hư hỏng, làm tượng thờ mang hình ảnh bất cứ cái gì và làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) mà trêu giận Người, 26thì hôm nay tôi lấy trời đất làm chứng cáo tội anh em: chắc chắn anh em sẽ mau chóng biến khỏi miền đất mà anh em sắp sang sông Gio-đan để chiếm hữu; anh em sẽ không sống lâu ở đó, vì anh em sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. 27ĐỨC CHÚA sẽ phân tán anh em vào giữa các dân, anh em sẽ chỉ còn là một dúm người giữa các dân nước mà ĐỨC CHÚA sẽ dẫn anh em đến. 28Tại đó anh em sẽ phụng thờ các thần do tay người phàm làm ra, là gỗ và đá, không nhìn không nghe, không ăn không ngửi.
29Từ chỗ đó anh em sẽ tìm ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), và anh (em) sẽ thấy nếu anh (em) hết lòng hết dạ kiếm tìm Người. 30Khi anh (em) gặp cảnh ngặt nghèo, khi tất cả những điều ấy xảy ra cho anh (em) sau này, anh (em) sẽ trở lại với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) và sẽ nghe tiếng Người. 31Thật vậy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) là Thiên Chúa từ bi: Người sẽ không bỏ mặc anh (em), sẽ không tiêu diệt anh (em), sẽ không quên giao ước Người đã thề với cha ông anh (em).
Được Chúa chọn là một hồng ân
32Anh (em) cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh (em), từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng? 33Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám lửa như anh (em) đã nghe, mà vẫn còn sống không? 34Hoặc có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đởm, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh (em) không?35Chính anh (em) đã được cho thấy những điều đó, để biết rằng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa và ngoài Người ra không có thần nào khác nữa. 36Từ trời, Người đã cho anh (em) nghe tiếng Người, để dạy dỗ anh (em); dưới đất, Người đã cho anh (em) thấy ngọn lửa lớn của Người, và anh (em) đã nghe các lời Người phán ra từ trong đám lửa. 37Bởi vì Người đã yêu thương cha ông anh (em), nên sau các ngài, Người đã chọn dòng dõi các ngài, và đã đích thân dùng sức mạnh lớn lao của Người đưa anh (em) ra khỏi Ai-cập. 38Người đã đuổi những dân lớn và mạnh hơn anh (em) cho khuất mắt anh (em), để đưa anh (em) vào đất của chúng và ban cho anh (em) đất ấy làm gia nghiệp, như anh (em) thấy hôm nay.
39Vậy hôm nay, anh (em) phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa. 40Anh (em) phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền cho anh (em); như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này sẽ được hạnh phúc, và anh (em) sẽ được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), vĩnh viễn ban cho anh (em)."
Ba thành làm nơi ẩn náu
41Bấy giờ ông Mô-sê tách ra ba thành ở bên kia sông Gio-đan, về phía đông, 42làm nơi ẩn náu cho kẻ sát nhân đã ngộ sát người đồng loại, mà trước đó không thù ghét người ấy; nó sẽ vào ẩn náu tại một trong các thành ấy và sẽ được sống. 43Đó là: Be-xe, trong sa mạc, trên đất Cao Nguyên, cho chi tộc Rưu-vên; Ra-mốt, trong miền Ga-la-át, cho chi tộc Gát; và Gô-lan, trong miền Ba-san, cho chi tộc Mơ-na-se.DIỄN TỪ THỨ HAI CỦA ÔNG MÔ-SÊ44Đây là luật mà ông Mô-sê đã trình bày cho con cái Ít-ra-en. 45Đây là những thánh ý, thánh chỉ và quyết định mà ông Mô-sê đã công bố cho con cái Ít-ra-en khi họ ra khỏi Ai-cập, 46lúc họ đang ở bên kia sông Gio-đan, trong thung lũng, đối diện với Bết Pơ-o, trong đất của Xi-khôn, vua người E-mô-ri, đóng đô ở Khét-bôn. Ông Mô-sê và con cái Ít-ra-en đã đánh bại vua ấy khi họ ra khỏi Ai-cập, 47đã chiếm hữu đất vua ấy và đất của Ốc, vua miền Ba-san, là hai vua người E-mô-ri ở bên kia sông Gio-đan về phía đông, 48từ A-rô-e trên mé thung lũng Ác-nôn đến núi Xi-ôn, tức là núi Khéc-môn, 49với tất cả thung lũng A-ra-va, bên kia sông Gio-đan về phía đông, đến biển A-ra-va, phía dưới sườn núi Pít-ga.
Mười điều răn (Xh 20: 1-17 )
1Ông Mô-sê triệu tập toàn thể Ít-ra-en và nói với họ: "Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi nói cho anh em nghe; anh em phải học cho biết những điều ấy và lo đem ra thực hành. 2ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, đã lập một giao ước với chúng ta tại núi Khô-rếp. 3ĐỨC CHÚA đã lập giao ước này không phải với cha ông chúng ta, mà là với chúng ta, những người hôm nay đang ở đây, tất cả còn đang sống. 4ĐỨC CHÚA đã phán với anh em mặt đối mặt, trên núi, từ trong đám lửa. 5Còn tôi, thời ấy, tôi đứng giữa ĐỨC CHÚA và anh em để thông báo cho anh em lời của ĐỨC CHÚA, vì anh em thấy lửa thì sợ và không lên núi. Người phán:6"Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.
7Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.
8Ngươi không được tạc tượng vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. 9Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. 10Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.
11Ngươi không được dùng danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng, vì Thiên Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.
12Ngươi hãy giữ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi. 13Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. 14Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi, cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, bò lừa và mọi gia súc của ngươi, và ngoại kiều ở trong thành của ngươi, để tôi tớ nam nữ của ngươi được nghỉ như ngươi. 15Ngươi hãy nhớ ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai-cập, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ngươi ra khỏi đó. Bởi vậy, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi cử hành ngày sa-bát.
16Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi, để được sống lâu, và để được hạnh phúc trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi.
17Ngươi không được giết người.
18Ngươi không được ngoại tình.
19Ngươi không được trộm cắp.
20Ngươi không được làm chứng dối hại người.
21Ngươi không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được thèm muốn nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta." 22Những lời ấy, ĐỨC CHÚA đã phán với toàn thể đại hội anh em, trên núi, từ trong đám lửa, giữa mây đen mù mịt, Người nói lớn tiếng và không thêm gì cả. Người đã viết những lời ấy trên hai bia đá và ban cho tôi.
Ông Mô-sê làm trung gian (Xh 20: 18 -21 )
23Khi anh em nghe tiếng từ giữa bóng tối, và núi đang bốc lửa, thì anh em, tất cả những người đứng đầu các chi tộc và những kỳ mục của anh em, đã đến gặp tôi 24và nói: "Này ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng tôi, đã cho chúng tôi thấy Người thật vinh quang và vĩ đại, và chúng tôi đã nghe tiếng của Người từ trong đám lửa. Hôm nay chúng tôi đã thấy rằng Thiên Chúa phán với con người mà con người vẫn sống. 25Bây giờ tại sao chúng tôi phải chết? Vì ngọn lửa lớn này có thể thiêu rụi chúng tôi. Chúng tôi mà cứ tiếp tục nghe tiếng của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng tôi, thì chúng tôi chết mất. 26Thật vậy, có người phàm nào đã được nghe tiếng của Thiên Chúa hằng sống phán từ trong đám lửa, như chúng tôi đã được nghe, mà vẫn còn sống? 27Phần ông, ông hãy lại gần và nghe tất cả những gì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng tôi, phán, rồi ông sẽ nói cho chúng tôi tất cả những gì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng tôi, phán với ông; chúng tôi sẽ nghe và đem ra thực hành."28ĐỨC CHÚA đã nghe thấy giọng nói của anh em khi anh em nói với tôi; ĐỨC CHÚA phán với tôi: "Ta đã nghe thấy giọng nói của dân này khi chúng nói với ngươi: Tất cả những gì chúng nói là phải. 29Phải chi chúng luôn luôn có một tấm lòng như thế để kính sợ Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta mọi ngày, như vậy chúng và con cái chúng sẽ được hạnh phúc mãi mãi! 30Ngươi hãy đi bảo chúng: "Anh em hãy trở về lều! 31Còn ngươi, đứng lại đây với Ta; Ta sẽ phán với ngươi tất cả mệnh lệnh, các thánh chỉ và quyết định mà ngươi sẽ dạy cho chúng, ngõ hầu chúng đem ra thực hành trong đất mà Ta ban cho chúng để chúng chiếm hữu."
Yêu mến Chúa: điểm chủ yếu của lề luật
32Anh em hãy lo thực hành như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, không đi trệch bên phải bên trái. 33Anh em hãy đi đúng con đường mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, để anh em được sống, được hạnh phúc và được sống lâu trên mặt đất mà anh em sẽ chiếm hữu.4Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. 5Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). 6Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng. 7Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy, 8phải buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu, 9phải viết lên khung cửa nhà anh (em), và lên cửa thành của anh (em).
10Khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đưa anh (em) vào đất Người đã thề với cha ông anh (em), là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho anh (em); khi anh (em) được những thành lớn và đẹp mà anh (em) đã không xây, 11những nhà đầy mọi thứ của cải mà anh (em) đã không để vào đó, những bể nước đào sẵn mà anh (em) đã không đào, những vườn nho và vườn ô-liu mà anh (em) đã không trồng; khi anh (em) được ăn uống no nê, 12thì phải ý tứ đừng quên ĐỨC CHÚA, Đấng đã đưa anh (em) ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. 13Chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), là Đấng anh (em) phải kính sợ; chính Người là Đấng anh (em) phải phụng thờ; anh (em) sẽ nhân danh Người mà thề.
Kêu gọi trung thành
14Anh em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân chung quanh anh em, 15vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), Đấng ở giữa anh (em), là một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), nổi cơn thịnh nộ với anh (em) và tiêu diệt anh (em), không còn cho sống trên mặt đất. 16Anh em đừng thách thức ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thách thức ở Ma-xa. 17Phải cẩn thận giữ các mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, cũng như các thánh ý và thánh chỉ Người đã truyền cho anh (em). 18Anh (em) phải làm điều ĐỨC CHÚA coi là ngay thẳng và tốt lành, để anh (em) được hạnh phúc và được vào chiếm hữu miền đất tốt tươi mà ĐỨC CHÚA đã thề hứa với cha ông anh (em): 19ĐỨC CHÚA sẽ đẩy lui mọi kẻ thù của anh (em) cho khuất mắt anh (em), như Người đã phán.20Mai ngày khi con anh (em) hỏi anh (em) rằng: "Vì sao có các thánh ý, thánh chỉ, quyết định mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, đã truyền cho quý vị? " 21Anh (em) sẽ trả lời cho con anh (em): "Chúng ta xưa làm nô lệ cho Pha-ra-ô bên Ai-cập, nhưng ĐỨC CHÚA đã ra tay uy quyền đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập. 22Trước mắt chúng ta, ĐỨC CHÚA đã thực hiện những điềm thiêng dấu lạ lớn lao và khủng khiếp, phạt Ai-cập, phạt Pha-ra-ô và tất cả triều đình vua ấy. 23Còn chúng ta, Người đã đưa ra khỏi đó, để dẫn chúng ta vào và ban cho chúng ta đất Người đã thề hứa với cha ông chúng ta. 24ĐỨC CHÚA đã truyền cho chúng ta đem ra thực hành tất cả những thánh chỉ này và kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, để chúng ta được hạnh phúc mọi ngày và để Người cho chúng ta được sống, như ngày hôm nay. 25Chúng ta sẽ là người công chính, nếu chúng ta lo đem ra thực hành tất cả mệnh lệnh này trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, như Người đã truyền cho chúng ta."
Ít-ra-en, một dân được tách riêng ra (Xh 34: 11 -16 )
1Khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đưa anh (em) vào đất anh (em) sắp đến chiếm hữu, khi Người đuổi cho khuất mắt anh (em) nhiều dân tộc: người Khết, Ghia-ga-si, E-mô-ri, Ca-na-an, Pơ-rít-di, Khi-vi, Giơ-vút, bảy dân tộc đông và mạnh hơn anh (em); 2khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), trao chúng cho anh (em) và anh (em) đánh bại chúng, thì anh (em) phải tru hiến chúng, không được lập giao ước với chúng và không được thương xót chúng. 3Anh (em) không được kết nghĩa thông gia với chúng: không được gả con gái anh (em) cho con trai chúng và cưới con gái chúng cho con trai anh (em), 4vì điều đó sẽ khiến con trai anh (em) không còn theo ĐỨC CHÚA nữa, nó sẽ thờ những thần khác; bấy giờ ĐỨC CHÚA sẽ nổi cơn thịnh nộ với anh (em) và sẽ mau chóng tiêu diệt anh (em). 5Nhưng anh (em) phải xử với chúng thế này: bàn thờ của chúng, phải phá huỷ; trụ đá của chúng, phải đập tan; cột thờ của chúng, phải chặt đi; tượng thần của chúng, phải bỏ vào lửa mà thiêu. 6Thật vậy, anh (em) là một dân thánh hiến cho ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em). ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) đã chọn anh (em) từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người.Chúa chọn và ưu đãi Ít-ra-en (Đnl 28: 1-14 )
7ĐỨC CHÚA đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. 8Nhưng chính là vì yêu thương anh em, và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em, mà ĐỨC CHÚA đã ra tay uy quyền đưa anh em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập. 9Anh (em) phải biết rằng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), thật là Thiên Chúa, là Thiên Chúa trung thành: cho đến muôn ngàn thế hệ, Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai yêu mến Người và giữ các mệnh lệnh của Người. 10Còn ai thù ghét Người, thì Người nhằm chính bản thân nó mà trả đũa, khiến nó phải chết; với kẻ thù ghét Người, Người không trì hoãn, Người nhằm chính bản thân nó mà trả đũa. 11Vậy anh (em) phải tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định mà hôm nay tôi truyền cho anh (em) đem ra thực hành.12Nếu anh em nghe, giữ và đem ra thực hành các quyết định này, thì bù lại, đối với anh (em), ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ giữ giao ước và tình thương mà Người đã thề hứa với cha ông anh (em). 13Người sẽ yêu thương anh (em), chúc phúc cho anh (em), sẽ làm cho anh (em) nên đông đúc. Người sẽ chúc phúc làm cho lòng dạ và đất đai của anh (em) sinh hoa kết quả: lúa mì, rượu mới, dầu tươi, lứa bò, lứa chiên, ở trên đất mà Người đã thề với cha ông anh (em) là sẽ ban cho anh (em). 14Anh (em) sẽ được phúc lành hơn mọi dân, và giữa anh (em) không đàn ông, đàn bà nào không có khả năng sinh con, gia súc của anh (em) cũng vậy. 15ĐỨC CHÚA sẽ đẩy xa anh (em) mọi bệnh tật, mọi dịch tễ khốc hại của Ai-cập mà anh (em) từng biết; Người sẽ không giáng những thứ đó xuống anh (em), nhưng sẽ bắt những kẻ ghét anh (em) phải chịu.
16Anh (em) sẽ thôn tính mọi dân mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em); đừng nhìn chúng mà thương hại và đừng phụng thờ các thần của chúng: điều đó có thể trở thành cạm bẫy cho anh (em).
Quyền lực của Thiên Chúa
17Có khi anh (em) sẽ tự bảo: "Những dân tộc ấy đông hơn ta, làm sao ta có thể trục xuất chúng được? " 18Nhưng anh (em) đừng sợ chúng. Anh (em) chỉ cần nhớ lại cách ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã xử với Pha-ra-ô và toàn cõi Ai-cập: 19ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) đã dùng các thử thách lớn lao mắt anh (em) từng thấy, đã dùng các dấu lạ điềm thiêng, và dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền để đưa anh (em) ra. ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ xử như thế với mọi dân mà anh (em) sợ. 20ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ gởi cả ong bầu đến với chúng, cho đến khi những kẻ còn lại, những kẻ trốn tránh để khỏi giáp mặt anh (em), bị tiêu diệt.21Đừng run khiếp trước mặt chúng, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ở giữa anh (em), là một Thiên Chúa vĩ đại, khả uý. 22ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ dần dần đuổi các dân tộc đó cho khuất mắt anh (em); anh (em) sẽ không thể tận diệt chúng mau chóng, kẻo dã thú sinh sôi nảy nở làm hại anh (em). 23ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ trao chúng cho anh (em) và sẽ làm cho chúng vô cùng hoảng sợ, cho đến khi chúng bị tiêu diệt. 24Người sẽ trao các vua của chúng vào tay anh (em), anh (em) sẽ làm cho tên chúng biến mất không còn dấu vết trong thiên hạ, và không ai sẽ đứng vững được trước mặt anh (em), cho đến khi anh (em) tiêu diệt chúng.
25Tượng các thần của chúng, anh (em) phải bỏ vào lửa mà thiêu. Anh (em) đừng ham muốn bạc vàng trên các tượng ấy mà lấy cho mình, kẻo anh (em) bị mắc bẫy, vì đó là vật ghê tởm đối với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em). 26Anh (em) đừng đưa một vật ghê tởm vào nhà anh (em), vì anh (em) sẽ trở thành của tru hiến như nó. Anh (em) phải kỵ nó và ghê tởm nó, vì nó là của tru hiến.
Thử thách trong sa mạc
1Tất cả mệnh lệnh mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh em hãy lo đem ra thực hành để anh em được sống, được trở nên đông đúc và được vào chiếm hữu đất mà ĐỨC CHÚA đã thề hứa với cha ông anh em. 2Anh (em) phải nhớ lại tất cả con đường mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã dẫn anh (em) đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh (em) phải cùng cực; như vậy Người thử thách anh (em) cho biết lòng dạ anh (em), xem anh (em) có giữ các mệnh lệnh của Người hay không. 3Người đã bắt anh (em) phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh (em) ăn man-na là của ăn anh (em) chưa từng biết và cha ông anh (em) cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh (em) nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng ĐỨC CHÚA phán ra. 4Bốn mươi năm qua, áo anh (em) mặc đã không rách, chân anh (em) đã không sưng lên.5Suy nghĩ lại, anh (em) phải nhận biết rằng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), giáo dục anh (em), như một người giáo dục con mình. 6Anh (em) phải giữ các mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mà đi theo đường lối của Người và kính sợ Người.
Đề phòng các cám dỗ khi vào đất hứa
7ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sắp đưa anh (em) vào một miền đất tốt tươi, miền đất có những dòng nước, những suối, những mạch nước ngầm chảy ra trong đồng bằng và trên núi, 8miền đất có lúa mì, lúa mạch, cây nho, cây vả, cây lựu, miền đất có cây ô-liu để ép dầu và có mật ong, 9miền đất ở đó anh (em) sẽ ăn bánh mà không bị hạn chế, ở đó anh (em) sẽ không thiếu thốn gì, miền đất mà đá là sắt, và núi có đồng cho anh (em) khai thác. 10Anh (em) sẽ được ăn, sẽ được no nê và sẽ chúc tụng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), vì miền đất tốt tươi mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em).11Anh (em) hãy ý tứ đừng quên ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mà không giữ các mệnh lệnh, quyết định và thánh chỉ của Người, mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay. 12Khi anh (em) được ăn, được no nê, khi anh (em) xây nhà đẹp để ở, 13khi anh (em) có nhiều bò và chiên dê, nhiều vàng bạc và nhiều mọi thứ của cải, 14thì lòng anh (em) đừng kiêu ngạo mà quên ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), Đấng đã đưa anh (em) ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. 15Người đã dẫn anh (em) đi trong sa mạc mênh mông khủng khiếp, đầy rắn lửa và bọ cạp, trong miền đất khô cằn không giọt nước. Người đã khiến nước từ tảng đá hoa cương chảy ra cho anh (em) uống. 16Trong sa mạc, Người đã cho anh (em) ăn man-na, thức ăn mà cha ông anh (em) chưa từng biết, để bắt anh (em) phải cùng cực và thử thách anh (em), hầu làm cho anh (em) được hạnh phúc trong tương lai.
17Anh (em) đừng tự bảo: "Chính năng lực của tôi và sức mạnh bàn tay tôi đã tạo ra cho tôi sự giàu có này." 18Anh (em) hãy nhớ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), vì Người ban cho anh (em) năng lực tạo ra sự giàu có, để Người giữ vững giao ước đã thề với cha ông anh (em), như anh (em) thấy hôm nay. 19Nhưng nếu chẳng may anh (em) quên lãng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mà theo các thần khác, phụng thờ và sụp xuống lạy chúng, thì hôm nay tôi cảnh cáo anh em: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong; 20như các dân mà ĐỨC CHÚA sắp tiêu diệt cho khuất mắt anh em, anh em cũng sẽ bị diệt vong như vậy, vì đã không nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em.
Chiến thắng là nhờ Chúa, chứ không phải vì Ít-ra-en công chính
1Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Hôm nay anh (em) sắp qua sông Gio-đan để vào trục xuất những dân tộc lớn và mạnh hơn anh (em), có những thành lớn và tường luỹ ngất trời, 2một dân lớn và cao, là con cái A-nác, mà anh (em) biết và anh (em) đã nghe nói: "Ai đứng vững được trước mặt con cái A-nác? " 3Hôm nay, anh (em) phải biết rằng: chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ đi qua trước mặt anh (em) như ngọn lửa thiêu; chính Người sẽ tiêu diệt chúng, chính Người sẽ hạ chúng xuống trước mặt anh (em). Anh (em) sẽ trục xuất chúng, sẽ làm chúng bị diệt vong mau lẹ, như Người đã phán với anh (em). 4Khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đẩy lui chúng cho khuất mắt anh (em) thì anh (em) đừng tự bảo rằng: "Chính vì tôi công chính mà ĐỨC CHÚA đã đưa tôi vào chiếm hữu đất này"; thật ra chính vì các dân tộc ấy có tội mà ĐỨC CHÚA trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em). 5Không phải vì anh (em) công chính hay vì lòng anh (em) ngay thẳng mà anh (em) sắp được vào chiếm hữu đất của chúng, nhưng chính vì các dân tộc ấy có tội mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em). ĐỨC CHÚA làm như vậy để giữ vững lời Người đã thề với cha ông anh (em), là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp. 6Anh (em) phải biết rằng không phải vì anh (em) công chính mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) miền đất tốt tươi ấy để anh (em) chiếm hữu; thật vậy, anh (em) là một dân cứng cổ.Dân phạm tội tại núi Khô-rếp. Ông Mô-sê cầu thay cho dân.
7Anh (em) phải nhớ, đừng quên rằng anh (em) đã chọc giận ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), trong sa mạc. Từ ngày anh (em) ra khỏi đất Ai-cập cho đến khi tới đây, anh em đã phản nghịch chống lại ĐỨC CHÚA. 8Tại núi Khô-rếp, anh em đã chọc giận ĐỨC CHÚA, và Người đã nổi cơn thịnh nộ với anh em đến nỗi muốn tiêu diệt anh em. 9Khi lên núi để nhận các bia đá, những tấm bia giao ước mà ĐỨC CHÚA đã lập với anh em, tôi đã ở trên núi bốn mươi ngày bốn mươi đêm, không ăn bánh, không uống nước. 10ĐỨC CHÚA đã ban cho tôi hai bia đá do ngón tay Thiên Chúa viết, trên đó có mọi lời ĐỨC CHÚA đã phán với anh em trên núi, từ trong đám lửa, trong ngày đại hội. 11Sau bốn mươi ngày bốn mươi đêm, ĐỨC CHÚA ban cho tôi hai bia đá, là những tấm bia giao ước. 12Bấy giờ, ĐỨC CHÚA phán với tôi: "Đứng lên! Mau xuống khỏi đây, vì dân của ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa ra khỏi Ai-cập. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta đã truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một tượng để thờ." 13ĐỨC CHÚA phán với tôi: "Ta thấy rằng dân này là một dân cứng cổ. 14Cứ để mặc Ta làm, Ta sẽ tiêu diệt chúng, sẽ xoá tên chúng không còn dấu vết trong thiên hạ. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc mạnh và đông hơn chúng."15Tôi đã quay xuống núi, bấy giờ núi đang bốc lửa, hai tay tôi cầm hai tấm bia giao ước. 16Tôi đã thấy anh em phạm tội nghịch cùng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em: anh em đã đúc tượng một con bê để thờ, anh em đã vội đi ra ngoài con đường ĐỨC CHÚA đã truyền cho anh em đi. 17Tôi bèn nắm lấy hai bia đá, dùng hai tay mà ném, và đập vỡ hai tấm bia đó trước mắt anh em. 18Tôi đã phục xuống trước mặt ĐỨC CHÚA; như lần trước, suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm, tôi không ăn bánh, không uống nước, vì mọi tội anh em đã phạm, khi làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA mà trêu giận Người. 19Ấy vì tôi kinh hãi cơn thịnh nộ và trận lôi đình của ĐỨC CHÚA đang bùng lên chống lại anh em, đến nỗi Người muốn tiêu diệt anh em; nhưng cả lần này nữa ĐỨC CHÚA cũng nhận lời tôi. 20Với ông A-ha-ron, ĐỨC CHÚA cũng nổi cơn thịnh nộ dữ dội, đến nỗi muốn tiêu diệt ông ấy; lúc đó, tôi cũng cầu xin cho ông A-ha-ron nữa. 21Còn sản phẩm tội lỗi anh em đã làm ra, là con bê, tôi đã lấy, bỏ vào lửa mà thiêu, nghiền nát, tán kỹ, đến nhuyễn thành bụi, rồi ném bụi đó xuống khe nước từ núi chảy ra.Những tội khác của dân. Ông Mô-sê cầu nguyện.
22Tại Táp-ê-ra, Ma-xa và Kíp-rốt Ha Ta-a-va, anh em đã chọc giận ĐỨC CHÚA. 23Khi ĐỨC CHÚA sai anh em đi từ Ca-đê Bác-nê-a và phán: "Hãy lên và chiếm hữu đất Ta ban cho các ngươi", anh em đã cưỡng lệnh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã không tin vào Người và không nghe tiếng Người. 24Anh em đã phản nghịch chống lại ĐỨC CHÚA từ ngày tôi biết anh em.
25Tôi đã phục xuống trước mặt ĐỨC CHÚA, suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm tôi đã phục xuống, vì ĐỨC CHÚA đã nói đến chuyện tiêu diệt anh em. 26Tôi cầu xin ĐỨC CHÚA và thưa rằng: "Lạy Chúa là ĐỨC CHÚA, xin đừng huỷ diệt dân ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao của Ngài để giải thoát, và đã ra tay uy quyền đưa ra khỏi Ai-cập. 27Xin nhớ đến các tôi tớ Ngài là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, xin đừng để ý đến sự ngoan cố, sự gian ác và tội của dân này, 28kẻo tại miền đất từ đó Ngài đã đưa chúng con ra, người ta lại nói: "Chính vì ĐỨC CHÚA đã không thể đưa chúng vào đất Người đã thề hứa với chúng, và chính vì ghét chúng mà Người đã đưa chúng ra để giết chúng trong sa mạc! 29Thế nhưng đó là dân Ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao và cánh tay uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập."
Chúa truyền làm Hòm Bia. Chi tộc Lê-vi được chọn. (Xh 34: 1-10 )
1Thời ấy, ĐỨC CHÚA phán bảo tôi: "Hãy đẽo hai bia đá như những bia trước, và lên núi với Ta. Ngươi cũng hãy làm một hòm gỗ. 2Ta sẽ viết trên các bia những lời đã có trên các bia trước mà ngươi đã đập vỡ, và ngươi hãy đặt các bia ấy trong hòm." 3Tôi đã làm một hòm bằng gỗ keo, và đẽo hai bia đá như những bia trước, và đã lên núi, trong tay cầm hai bia đá. 4Người đã viết trên các bia điều đã viết lần trước, là mười lời ĐỨC CHÚA đã phán với anh em trên núi, từ trong đám lửa, trong ngày đại hội. Rồi ĐỨC CHÚA ban những bia đó cho tôi. 5Tôi quay xuống núi, đặt các bia vào hòm tôi đã làm, và các bia vẫn còn đó, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho tôi.6Từ những giếng Bơ-nê Gia-a-can, con cái Ít-ra-en lên đường đi Mô-xê-ra. Ông A-ha-ron qua đời và được chôn cất tại đó. Ông E-la-da, con ông, thi hành chức vụ tư tế thay ông. 7Từ chỗ đó, họ lên đường đi Gút-gô-đa, rồi từ Gút-gô-đa đi Giót-va-tha, một đất có nhiều khe nước. 8Thời ấy, ĐỨC CHÚA tách chi tộc Lê-vi ra, để họ mang Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA, chầu chực trước nhan ĐỨC CHÚA, phụng sự Người và chúc phúc nhân danh Người, cho đến ngày nay. 9Vì thế, chi tộc Lê-vi không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em mình; chính ĐỨC CHÚA là gia nghiệp của họ, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã phán với họ.
10Phần tôi, tôi ở trên núi, như những ngày trước, suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm, và cả lần này nữa ĐỨC CHÚA cũng nhận lời tôi: Người đã không muốn huỷ diệt anh (em). 11ĐỨC CHÚA phán với tôi: "Đứng dậy! hãy lên đường và đi phía trước dân, để chúng vào chiếm hữu đất mà Ta đã thề với cha ông chúng rằng Ta sẽ ban cho chúng."
Cắt bì trong tâm hồn
12Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, nào ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), có đòi hỏi anh (em) điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, 13giữ các mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay, để anh (em) được hạnh phúc?14ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), làm chủ cõi trời và các tầng trời cao nhất, cõi đất và muôn loài trong đó. 15Nhưng chỉ có cha ông của anh (em) là được ĐỨC CHÚA đem lòng quyến luyến yêu thương; sau các ngài, giữa muôn dân, Người đã chọn dòng dõi các ngài tức là anh em, như anh em thấy ngày hôm nay. 16Vậy anh em hãy cắt bì tâm hồn anh em và đừng cứng cổ nữa, 17vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả uý, là Đấng không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ, 18là Đấng xử công minh cho cô nhi quả phụ, và yêu thương ngoại kiều, cho họ bánh ăn áo mặc. 19Anh em phải yêu thương ngoại kiều, vì anh em đã từng là ngoại kiều ở đất Ai-cập. 20Chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), là Đấng anh (em) phải kính sợ; chính Người là Đấng anh (em) phải phụng thờ; anh (em) phải gắn bó với Người; anh (em) sẽ nhân danh Người mà thề; 21chính Người là Đấng anh (em) phải ca tụng; chính Người là Thiên Chúa của anh (em), Đấng đã làm cho anh (em) những điều lớn lao và khủng khiếp mà chính mắt anh (em) đã thấy đó. 22Cha ông của anh (em) chỉ có bảy mươi người khi xuống Ai-cập, mà bây giờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã làm cho anh (em) nên nhiều như sao trên trời.
Kinh nghiệm của Ít-ra-en
1Anh (em) phải yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), và mọi ngày phải giữ điều Người truyền giữ, là các thánh chỉ, quyết định và mệnh lệnh của Người. 2Hôm nay, anh em -chứ không phải con cái anh em, những kẻ không biết và không thấy- anh em biết bài học ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã dạy, biết sức mạnh lớn lao và cánh tay mạnh mẽ uy quyền của Người; 3anh em biết những dấu lạ và hành động Người đã làm ngay tại Ai-cập chống lại Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và cả nước vua ấy; 4anh em biết việc Người đã làm chống quân đội Ai-cập cùng với chiến mã và chiến xa của chúng, khi Người cho nước Biển Sậy tràn ngập lên chúng, đang lúc chúng đuổi theo anh em, và ĐỨC CHÚA đã huỷ diệt chúng cho đến ngày nay; 5anh em biết việc Người đã làm cho anh em trong sa mạc cho đến khi anh em tới đất này; 6anh em biết việc Người đã làm để phạt Đa-than và A-vi-ram, là con của Ê-li-áp thuộc chi tộc Rưu-vên, khi đất há miệng nuốt chúng ngay giữa toàn thể Ít-ra-en, cùng với gia đình chúng, lều chúng và mọi kẻ theo bước chân chúng. 7Chính mắt anh em đã thấy tất cả hành động lớn lao ĐỨC CHÚA đã làm.Hứa hẹn và cảnh cáo8Vậy anh em phải giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được mạnh sức và vào chiếm hữu đất anh em sắp sang chiếm hữu, 9và để anh em được sống lâu trên đất, mà ĐỨC CHÚA đã thề với cha ông anh em là sẽ ban cho các ngài và dòng dõi các ngài, một đất tràn trề sữa và mật.
10Thật vậy, đất anh (em) sắp vào chiếm hữu không như đất Ai-cập mà anh em đã bỏ ra đi: ở đó anh em gieo giống rồi phải dùng chân mà tưới như tưới vườn rau. 11Còn đất mà anh em sắp sang chiếm hữu là một miền đất có núi non và thung lũng, thấm nước mưa trời, 12miền đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), chăm sóc: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), luôn luôn để mắt tới đất ấy, từ đầu năm đến cuối năm.
13Nếu các ngươi thực sự vâng nghe những mệnh lệnh Ta truyền cho các ngươi hôm nay, mà yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, và phụng thờ Người hết lòng hết dạ, 14thì Ta sẽ ban mưa cho đất các ngươi đúng mùa, mưa đầu mùa và mưa cuối mùa, và (các) ngươi sẽ thu hoạch lúa mì, rượu mới và dầu tươi của (các) ngươi. 15Ta sẽ cho cỏ mọc trong cánh đồng của (các) ngươi, cho súc vật của (các) ngươi ăn. (Các) ngươi sẽ được ăn và được no nê.
16Anh em hãy ý tứ kẻo lòng anh em bị quyến rũ mà bỏ đi phụng thờ những thần khác và sụp xuống lạy chúng, 17vì ĐỨC CHÚA sẽ nổi cơn thịnh nộ với anh em, Người sẽ đóng cửa trời: sẽ chẳng còn mưa, đất sẽ không còn trổ sinh hoa trái, và anh em sẽ mau chóng biến khỏi miền đất tốt tươi mà ĐỨC CHÚA ban cho anh em.
Kết luận
18Những lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. 19Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái, mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. 20Anh em phải viết lên khung cửa nhà anh (em) và lên cửa thành của anh (em). 21Như vậy, bao lâu trời còn che đất, anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các ngài.22Nếu anh em cẩn thận giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em đem ra thực hành, mà yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người và gắn bó với Người, 23thì ĐỨC CHÚA sẽ trục xuất mọi dân tộc ấy cho khuất mắt anh em, và anh em sẽ trục xuất những dân tộc lớn và mạnh hơn anh em. 24Mọi nơi bàn chân anh em giẫm lên sẽ là của anh em: từ sa mạc và núi Li-băng, từ Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát, cho đến Biển Tây, sẽ là lãnh thổ của anh em. 25Không ai sẽ đứng vững được trước mặt anh em; ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, sẽ làm cho tất cả miền đất anh em giẫm lên phải kinh khiếp sợ hãi anh em, như Người đã phán với anh em.
26Hãy xem, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc được chúc phúc hoặc bị nguyền rủa. 27Anh em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, mà tôi truyền cho anh em hôm nay. 28Anh em sẽ bị nguyền rủa, nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, nếu anh em bỏ con đường hôm nay tôi truyền cho anh em phải đi, mà theo những thần khác anh em không biết. 29Khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã đưa anh (em) tới đất mà anh (em) đang vào chiếm hữu, anh (em) sẽ đặt lời chúc phúc trên núi Ga-ri-dim và lời nguyền rủa trên núi Ê-van. - 30Những núi ấy ở bên kia sông Gio-đan, trên con đường phía tây, trong đất người Ca-na-an là người ở miền A-ra-va, đối diện với Ghin-gan, bên cạnh cụm sồi Mô-re.- 31Thật vậy, anh em sắp sang sông Gio-đan để vào chiếm hữu đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em. Anh em sẽ chiếm hữu và ở trong đất ấy. 32Vậy anh em phải lo đem ra thực hành mọi thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi trình bày cho anh em.
II. BỘ ĐỆ NHỊ LUẬT
1Đây là những thánh chỉ và quyết định mà anh em phải lo đem ra thực hành, trong đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã ban cho anh (em) để anh (em) chiếm hữu, mọi ngày anh em sống trên mặt đất.Nơi thờ phượng2Anh em phải dẹp bỏ hết mọi nơi mà các dân tộc anh em sắp trục xuất đã phụng thờ các thần của chúng, trên các núi cao, các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh. 3Anh em phải phá huỷ bàn thờ của chúng, đập tan trụ đá của chúng; cột thờ của chúng, anh em phải bỏ vào lửa mà thiêu; tượng các thần của chúng, anh em phải vằm nát; anh em phải xoá bỏ tên chúng khỏi nơi ấy.
4Anh em không được làm như vậy đối với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em. 5Anh em sẽ chỉ được tìm ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, ở nơi Người chọn trong mọi chi tộc của anh em làm chỗ đặt Danh Người, làm nơi Người ngự; anh (em) sẽ đến đó. 6Anh em sẽ đưa tới đó lễ toàn thiêu và hy lễ của anh em, thuế thập phân và phần dâng cúng của anh em, lễ vật anh em đã khấn hứa, lễ vật tự nguyện, những con đầu lòng trong đàn bò và đàn chiên dê của anh em. 7Ở đó, anh em sẽ ăn uống trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, sẽ liên hoan với cả nhà anh em, để mừng mọi công việc tay anh em đã làm, nhờ được ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc.
8Anh em sẽ không làm như chúng ta đang làm ở đây hôm nay: mỗi người làm điều mình cho là phải. 9Thật vậy, cho đến bây giờ anh em chưa đạt tới chốn nghỉ ngơi và phần gia nghiệp mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 10Anh em sắp sang qua sông Gio-đan và ở trong đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, cho anh em hưởng làm gia nghiệp. Người sẽ cho anh em được thảnh thơi mọi bề không còn thù địch nào nữa, và anh em sẽ được sống yên hàn. 11Nơi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, chọn cho Danh Người ngự, anh em hãy đưa tới đó mọi thứ tôi truyền cho anh em: lễ toàn thiêu và hy lễ của anh em, thuế thập phân và phần đóng góp của anh em, và tất cả những gì anh em chọn lựa để làm vật khấn dâng ĐỨC CHÚA. 12Anh em sẽ liên hoan trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, cùng với con trai con gái anh em, tôi tớ nam nữ của anh em, với thầy Lê-vi ở trong các thành của anh em, vì thầy ấy không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em.
Chỉ dẫn về việc dâng lễ tế
13Hãy ý tứ đừng dâng lễ toàn thiêu của anh (em) tại bất cứ nơi nào anh (em) thấy; 14nhưng anh (em) sẽ chỉ dâng lễ toàn thiêu của anh (em) ở nơi ĐỨC CHÚA chọn tại một trong các chi tộc của anh (em), và ở đó anh (em) sẽ làm mọi điều tôi truyền cho anh (em).15Tuy nhiên, mỗi khi anh (em) thèm, anh (em) có thể giết súc vật và ăn thịt trong mọi thành của anh (em), tuỳ theo phúc lành mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) ban cho anh em. Người ô uế và người thanh sạch đều có thể ăn thịt đó như ăn thịt sơn dương hay thịt nai. 16Nhưng tiết thì anh em không được ăn; anh (em) sẽ đổ xuống đất như đổ nước.
17Thuế thập phân lúa mì, rượu mới, dầu tươi của anh (em), những con đầu lòng trong đàn bò và đàn chiên dê của anh (em), mọi lễ vật anh (em) đã khấn hứa, lễ vật tự nguyện và phần dâng cúng của anh (em), anh (em) sẽ không được ăn những thứ đó trong các thành của anh (em); 18nhưng chỉ được ăn trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) chọn, và ăn cùng với con trai con gái anh em, tôi tớ nam nữ của anh em, và thầy Lê-vi ở trong các thành của anh (em); anh (em) sẽ liên hoan trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), để mừng mọi công việc tay anh (em) đã làm. 19Ngày nào anh (em) còn trên đất của anh (em), hãy ý tứ đừng bỏ rơi thầy Lê-vi.
20Khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mở rộng lãnh thổ của anh (em), như Người đã phán với anh (em), và anh (em) nói: "Tôi muốn ăn thịt", vì anh (em) thèm ăn thịt, thì anh (em) có thể ăn thịt mỗi khi anh (em) thèm. 21Nếu nơi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), chọn làm chỗ đặt Danh Người mà ở xa anh (em), thì anh (em) có thể giết bò và chiên dê ĐỨC CHÚA ban cho anh (em), như tôi đã truyền cho anh (em), và ăn trong các thành của anh (em), mỗi khi anh (em) thèm. 22Anh (em) sẽ ăn y như người ta ăn thịt sơn dương và thịt nai; người ô uế và người thanh sạch sẽ cùng ăn với nhau. 23Tuy nhiên, anh (em) phải nhất quyết không ăn tiết, vì máu là mạng sống, và anh (em) không được ăn mạng sống cùng với thịt. 24Anh (em) không được ăn tiết, anh (em) sẽ đổ xuống đất như đổ nước. 25Anh (em) không được ăn tiết; như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này được hạnh phúc, vì anh (em) làm điều ĐỨC CHÚA coi là ngay thẳng. 26Chỉ những gì anh (em) phải thánh hiến và những lễ vật anh (em) khấn hứa, anh (em) mới mang đi và đưa tới nơi ĐỨC CHÚA chọn. 27Anh (em) hãy dâng lễ toàn thiêu của anh (em), cả thịt lẫn máu, trên bàn thờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em); còn hy lễ của anh (em), thì máu sẽ đổ trên bàn thờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), thịt thì anh (em) sẽ ăn. 28Anh (em) phải giữ và nghe những điều tôi truyền cho anh (em) đây, để anh (em) và con cái anh (em) sau này được hạnh phúc mãi mãi, bởi vì anh (em) đã làm điều ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), coi là tốt lành và ngay thẳng.
Đừng bắt chước các việc tế tự của người Ca-na-an
29Khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã quét sạch các dân tộc khỏi miền đất anh (em) sắp vào để trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em), khi anh (em) đã định cư trên đất của chúng rồi, 30thì hãy ý tứ đừng mắc bẫy mà theo chúng, sau khi chúng đã bị tiêu diệt cho khuất mắt anh (em); hãy ý tứ đừng tìm các thần của chúng và nói: "Các dân tộc ấy phụng thờ các thần của họ thế nào? Cả tôi nữa, tôi cũng muốn làm như thế." 31Anh (em) đừng thờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), như thế, vì tất cả đều ghê tởm đối với ĐỨC CHÚA; điều Người ghét, thì chúng đã làm cho các thần của chúng; ngay cả các con trai con gái của chúng, chúng cũng đã bỏ vào lửa mà thiêu để tế các thần của chúng.Đề phòng kẻo bị lôi cuốn thờ thần ngoại
2Nếu ở giữa anh (em) xuất hiện một ngôn sứ hay một kẻ chuyên nghề chiêm bao và nó báo trước cho anh (em) một dấu lạ hay một điềm thiêng, 3nếu dấu lạ hay điềm thiêng nó đã nói xảy ra, và nó bảo: "Chúng ta hãy theo và phụng thờ các thần khác", những thần mà anh (em) không biết, 4thì anh (em) đừng nghe những lời của ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), thử thách anh em cho biết anh em có yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ không. 5Chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải theo; chính Người là Đấng anh em phải kính sợ; anh em phải giữ các mệnh lệnh của Người, phải nghe tiếng Người; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ; anh em phải gắn bó với Người. 6Ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy sẽ bị xử tử, vì nó đã hô hào nổi loạn chống ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập và đã chuộc anh (em) khỏi cảnh nô lệ, và vì nó đã muốn lôi cuốn anh (em) ra khỏi con đường ĐỨC CHÚA đã truyền cho anh (em) phải đi. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác không cho tồn tại giữa anh (em).7Nếu người anh em của anh (em), con của mẹ anh (em), hoặc con trai con gái anh (em), hoặc người vợ anh (em) âu yếm, hoặc người bạn anh (em) coi như chính mình, lén lút rủ rê anh (em): "Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần khác" những thần mà anh (em) và cha ông anh (em) không biết, 8trong số các thần của những dân ở chung quanh, gần hay xa anh (em), từ đầu đến cuối xứ, 9thì anh (em) đừng ưng thuận, đừng nghe nó, đừng nhìn nó mà thương hại, đừng xót thương, đừng bao che nó; 10trái lại, nhất định anh (em) phải giết nó. Anh (em) phải là người đầu tiên tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp tay sau. 11Anh (em) phải ném đá cho nó chết, và nó phải chết vì đã tìm cách lôi cuốn anh (em) xa ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), Đấng đã đưa anh (em) ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. 12Nghe nói thế, toàn thể Ít-ra-en sẽ sợ và không còn làm điều xấu như vậy giữa anh (em).
13Nếu tại một trong những thành mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) để ở, anh (em) nghe nói rằng 14có những tên vô lại phát xuất từ giữa anh (em) và lôi cuốn dân thành chúng mà rằng: "Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần khác", những thần mà anh (em) không biết, 15thì anh (em) sẽ điều tra, dò xét, sẽ hỏi han kỹ lưỡng, và nếu thật sự và chắc chắn là người ta đã làm điều ghê tởm đó giữa anh (em), 16thì anh (em) phải dùng lưỡi gươm giết dân thành ấy, phải tru hiến thành ấy với tất cả những gì trong đó; cả súc vật ở đó cũng phải dùng lưỡi gươm mà giết. 17Tất cả những gì chiếm được trong thành, anh (em) phải gom vào giữa quảng trường, rồi phóng hoả thành ấy với mọi thứ chiếm được, tất cả để dâng kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em). Thành ấy sẽ mãi mãi là một phế tích và sẽ không được xây dựng lại nữa. 18Đừng để bất cứ vật tru hiến nào còn dính lại trong tay anh (em). Như vậy ĐỨC CHÚA sẽ nguôi cơn thịnh nộ, Người sẽ tỏ lòng từ bi và thương xót anh (em), sẽ làm cho anh (em) nên đông đúc, như đã thề với cha ông anh (em), 19miễn là anh (em) nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mà giữ mọi mệnh lệnh tôi truyền cho anh (em) hôm nay, và làm điều ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) coi là ngay thẳng.
Cấm một vài tập tục tang chế
1Anh em là những người con của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em. Anh em không được rạch mình và không được cạo tóc phía trên trán mà để tang một người chết, 2vì anh (em) là một dân thánh hiến cho ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em). ĐỨC CHÚA đã chọn anh (em) từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người.Loài vật thanh sạch và loài vật ô uế (Lv 11: 2-47 )
3Anh (em) không được ăn cái gì ghê tởm. 4Đây là những loài vật anh (em) được ăn: bò, cừu, dê, 5nai, sơn dương, hoẵng, dê rừng, linh dương, dê sừng dài, cừu rừng. 6Mọi con vật có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài nhai lại, thì anh (em) được ăn. 7Tuy nhiên, trong các loài nhai lại và các loài có móng chẻ hai, anh em không được ăn các con này: con lạc đà, con thỏ rừng, con ngân thử -vì chúng nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: anh em phải coi chúng là loài ô uế-; 8con heo, vì nó có móng chẻ hai, nhưng không nhai lại: anh em phải coi nó là loài ô uế. Thịt của chúng, anh em không được ăn, xác chết của chúng, anh em không được đụng đến.9Trong tất cả các loài sống dưới nước, đây là những loài anh em được ăn: những loài có vây và có vảy, thì anh em được ăn. 10Còn tất cả những loài không có vây không có vảy, thì anh em không được ăn: anh em phải coi chúng là loài ô uế.
11Mọi loài chim thanh sạch, anh em được ăn. 12Đây là những loài chim anh em không được ăn: đại bàng, diều hâu, ó biển, 13diều mướp, kền kền, mọi thứ diều hâu, 14mọi thứ quạ, 15đà điểu, cú, mòng biển, mọi thứ bồ cắt, 16cú vọ, cú mèo, chim lợn, 17bồ nông, ó, cốc, 18cò, mọi thứ diệc, chim đầu rìu và dơi. 19Mọi côn trùng có cánh, anh em phải coi là loài ô uế, anh em không được ăn. 20Mọi loài có cánh mà thanh sạch, anh em được ăn.
21Anh em không được ăn mọi con vật chết, mà hãy cho ngoại kiều ở trong các thành của anh (em) để họ ăn, hoặc hãy bán cho người nước ngoài, vì anh (em) là một dân thánh hiến cho ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em).Anh (em) không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con.
Thuế thập phân hàng năm
22Mỗi năm anh (em) phải trích một phần mười tất cả hoa lợi lấy từ những gì anh (em) gieo, những gì mọc lên ngoài đồng. 23Anh (em) sẽ dùng trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Người chọn cho Danh Người ngự, thuế thập phân lúa mì, rượu mới, dầu tươi của anh (em), và những con đầu lòng trong đàn bò và đàn chiên dê của anh (em), để mọi ngày anh (em) học cho biết kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em).24Nếu đường quá dài khiến anh (em) không thể đem thuế thập phân đến được, vì nơi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), chọn để đặt Danh Người, quá xa chỗ anh (em) ở, thì khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã chúc phúc cho anh (em), 25anh (em) hãy đổi lấy bạc, cầm trong tay và đi tới nơi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), chọn. 26Anh (em) hãy đem bạc đổi lấy tất cả những gì anh (em) thèm: bò, chiên dê, rượu, đồ uống có men và tất cả những gì anh (em) ao ước; ở đó anh (em) sẽ ăn uống trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), và sẽ liên hoan với cả nhà. 27Còn thầy Lê-vi ở trong các thành của anh (em), anh (em) đừng bỏ rơi, vì thầy ấy không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh (em).
Thuế thập phân ba năm một lần
28Ba năm một lần, anh (em) hãy đưa ra tất cả thuế thập phân trích từ hoa lợi năm thứ ba, và đặt ở cửa thành của anh (em). 29Bấy giờ thầy Lê-vi -là người không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh (em)- người ngoại kiều và cô nhi quả phụ ở trong các thành của anh (em), sẽ đến, họ sẽ ăn và được no nê, để ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc cho mọi công việc tay anh (em) làm.Năm sa-bát (Lv 25: 1-7)
1Bảy năm một lần, anh (em) hãy tha nợ. 2Đây là cách thức tha nợ: mỗi chủ nợ sẽ tha món nợ đã cho người đồng loại vay mượn, không thúc người đồng loại và người anh em trả nợ, vì người ta đã công bố việc tha nợ để kính ĐỨC CHÚA. 3Người nước ngoài, anh (em) có thể thúc nợ; nhưng cái gì của anh (em) mà ở trong nhà người anh em của anh (em), thì phải tha không đòi. 4Tuyệt nhiên giữa anh (em) sẽ không có người nghèo, vì ĐỨC CHÚA sẽ chúc phúc dồi dào cho anh (em) trong miền đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp để anh (em) chiếm hữu, 5miễn là anh (em) thực sự nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mà lo đem ra thực hành tất cả mệnh lệnh hôm nay tôi truyền cho anh (em) đây. 6Thật vậy, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chúc phúc cho anh (em) như Người đã phán với anh (em); anh (em) sẽ cho nhiều dân tộc vay mượn, còn chính anh (em) sẽ không phải vay mượn; anh (em) sẽ thống trị nhiều dân tộc, nhưng chúng sẽ không thống trị anh (em).7Nếu giữa anh (em), trong một thành nào của anh (em), trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), có một người anh em nghèo, thì anh (em) đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng; 8nhưng phải mở rộng tay, và cho họ vay mượn tất cả những gì họ thiếu. 9Hãy ý tứ đừng có trong lòng tư tưởng xấu này: "Sắp đến năm thứ bảy, năm tha nợ", mà nhìn người anh em nghèo của anh (em) với cặp mắt dữ dằn và không cho gì. Họ sẽ kêu lên ĐỨC CHÚA tố cáo anh (em) và anh (em) sẽ mang tội. 10Anh (em) phải cho họ cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng; thật vậy, vì việc đó, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) sẽ chúc phúc cho anh (em) trong mọi việc anh (em) làm và mọi công trình tay anh (em) thực hiện. 11Vì trong đất của anh (em) sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh (em): hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh (em), trong miền đất của anh (em).
Người nô lệ (Xh 21: 1-11 )
12Nếu người anh em hay chị em Híp-ri của anh (em), bán mình cho anh (em), thì họ sẽ hầu hạ anh (em) sáu năm; đến năm thứ bảy, anh (em) phải phóng thích họ về. 13Khi anh (em) phóng thích họ về, thì đừng để họ về tay không; 14anh (em) phải tặng họ nào là chiên dê, nào là lúa mì, rượu nho của anh (em): anh (em) hãy cho họ tuỳ theo phúc lành mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) đã ban cho anh (em). 15Anh (em) hãy nhớ rằng mình đã làm nô lệ tại đất Ai-cập, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã giải thoát anh (em). Vì vậy, hôm nay tôi truyền cho anh (em) điều đó.16Nhưng nếu người nô lệ nói: "Tôi không muốn ra khỏi nhà ông", vì họ mến anh (em) và gia đình anh (em), và vì họ được hạnh phúc khi ở với anh (em), 17thì anh (em) sẽ kê tai người ấy vào cánh cửa, và lấy dùi mà xỏ, và họ sẽ làm nô lệ anh (em) suốt đời. Đối với nữ tỳ của anh (em), anh (em) cũng sẽ làm như vậy.
18Anh (em) đừng cho là quá nặng khi phải phóng thích họ về, vì họ phục vụ anh (em) sáu năm thì cũng bằng anh (em) thuê hai người làm mướn. ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chúc phúc cho anh (em) trong mọi việc anh (em) làm.
Các con đầu lòng
19Mọi con đầu lòng giống đực sinh ra trong đàn bò và đàn chiên dê của anh (em), anh (em) phải thánh hiến cho ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em). Anh (em) không được bắt con bò đầu lòng của anh (em) làm việc, không được xén lông chiên dê đầu lòng của anh (em). 20Hằng năm, trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), anh (em) và cả nhà anh (em) sẽ ăn những con đầu lòng đó ở nơi ĐỨC CHÚA chọn. 21Nhưng nếu con vật có tật, què, mù hay bất cứ tật nào khác, thì anh (em) không được tế nó cho ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em); 22anh (em) sẽ ăn thịt nó trong các thành của anh (em). Người ô uế và người thanh sạch đều có thể ăn, như ăn thịt sơn dương hay thịt nai. 23Nhưng tiết của nó thì anh (em) không được ăn, anh (em) sẽ đổ xuống đất như đổ nước.Các đại lễ: lễ Vượt Qua, lễ Bánh Không Men (Xh 12: 1-20 )
1Anh (em) hãy giữ tháng A-víp và mừng lễ Vượt Qua kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), vì trong tháng A-víp, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã đưa anh (em) ra khỏi Ai-cập ban đêm. 2Anh (em) hãy giết chiên dê và bò làm lễ vật Vượt Qua dâng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi ĐỨC CHÚA chọn cho Danh Người ngự. 3Anh (em) không được ăn bánh có men với lễ vật đó; trong vòng bảy ngày, anh (em) sẽ ăn bánh không men -thứ bánh khổ cực, vì anh (em) đã phải vội vã ra khỏi đất Ai-cập-, để mọi ngày trong đời anh (em), anh (em) nhớ ngày ra khỏi đất Ai-cập. 4Trong vòng bảy ngày, không ai được thấy anh (em) có men trên toàn lãnh thổ anh (em); và thịt con vật anh (em) đã tế chiều ngày thứ nhất, thì không được giữ lại gì qua đêm cho đến sáng. 5Anh (em) không được giết lễ vật Vượt Qua ở bất cứ thành nào khác trong những thành mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em); 6nhưng chỉ ở nơi ĐỨC CHÚA chọn cho danh Người ngự, anh (em) mới được giết lễ vật Vượt Qua, vào buổi chiều, khi mặt trời lặn, là thời điểm anh (em) ra khỏi Ai-cập. 7Anh (em) sẽ nấu mà ăn, ở nơi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), chọn, rồi sáng ngày anh (em) sẽ quay về lều trại mình. 8Trong vòng sáu ngày, anh (em) sẽ ăn bánh không men, đến ngày thứ bảy, sẽ có buổi họp long trọng kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), anh (em) không được làm công việc gì.Các đại lễ khác (Xh 34: 22; Lv 23: 15 -21, 33 -43 )
9Anh (em) sẽ tính bảy tuần: từ khi bắt đầu mang liềm đi gặt lúa, anh (em) bắt đầu tính bảy tuần. 10Rồi anh (em) sẽ mừng lễ Ngũ Tuần kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), dâng lễ vật tự nguyện, tuỳ theo phúc lành ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 11Ở nơi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã chọn cho Danh Người ngự, anh (em) sẽ liên hoan trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), cùng với con trai con gái, tôi tớ nam nữ, với thầy Lê-vi ở trong các thành của anh (em), với ngoại kiều và cô nhi quả phụ sống giữa anh (em). 12Anh (em) hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên Ai-cập, anh (em) phải giữ và đem ra thực hành các thánh chỉ này.13Còn lễ Lều, anh (em) sẽ mừng trong vòng bảy ngày, khi đã thu hoạch lúa trong sân và rượu trong bồn đạp nho. 14Anh (em) sẽ liên hoan mừng lễ, cùng với con trai con gái, tôi tớ nam nữ, với thầy Lê-vi, ngoại kiều và cô nhi quả phụ ở trong các thành của anh (em). 15Trong vòng bảy ngày, anh (em) sẽ mở lễ kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), tại nơi ĐỨC CHÚA chọn, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) chúc phúc cho anh (em) là ban cho anh (em) mọi hoa lợi và cho mọi công việc tay anh (em) làm được kết quả; anh (em) chỉ có việc hân hoan.
16Mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai của anh (em) phải đến trình diện ĐỨC CHÚA, ở nơi Người chọn: vào dịp lễ Bánh Không Men, lễ Ngũ Tuần và lễ Lều. Người ta sẽ không đến trình diện ĐỨC CHÚA tay không. 17Nhưng mỗi người sẽ đem lễ vật theo khả năng, tuỳ theo phúc lành ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em).
Các thẩm phán
18Anh (em) phải đặt cho các chi tộc của anh (em) những thẩm phán và ký lục trong mọi thành mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em); họ sẽ xét xử dân cách công minh. 19Anh (em) không được làm sai lệch công lý, không được thiên vị ai và không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ khôn ngoan hoá ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính. 20Anh (em) hãy theo đuổi sự công chính, chỉ sự công chính mà thôi, để anh (em) được sống và được chiếm hữu đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em).Những cách thờ phượng sai lạc21Anh (em) không được cắm cột thờ để mà thờ, dù bằng thứ gỗ nào, bên cạnh bàn thờ anh (em) sẽ làm để kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em). 22Anh (em) không được dựng trụ đá để mà thờ: đó là cái mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) ghét.
2Nếu ở giữa anh (em), tại một trong các thành mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), thấy có một người đàn ông hay đàn bà làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), vi phạm giao ước của Người, 3đi phụng thờ các thần khác, sụp xuống lạy chúng, lạy mặt trời, mặt trăng và toàn thể thiên binh, điều mà tôi đã không truyền, 4nếu anh (em) được thông báo và được nghe điều ấy, thì anh (em) phải điều tra kỹ lưỡng; nếu thật sự và chắc chắn là người ta đã làm điều ghê tởm đó tại Ít-ra-en, 5thì anh (em) phải lôi người đàn ông hay đàn bà đã làm điều xấu đó ra cửa thành của anh (em); người đàn ông hay đàn bà đó, anh (em) sẽ ném đá chúng cho chết và chúng phải chết. 6Căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay ba nhân chứng, mà người đáng chết sẽ bị xử tử; người ấy sẽ không bị xử tử nếu chỉ căn cứ vào lời của một nhân chứng. 7Các nhân chứng phải là người đầu tiên tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp tay sau. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em).
Các thẩm phán Lê-vi
8Nếu có vụ nào khó quá, anh (em) không xử được: án mạng, tranh chấp hay đả thương, là những vụ kiện tụng tại toà án thành của anh (em), thì anh (em) hãy đứng dậy và lên nơi mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chọn. 9Anh (em) sẽ đến với các tư tế Lê-vi và vị thẩm phán tại chức trong những ngày đó; anh (em) sẽ thỉnh ý và họ sẽ thông báo bản án cho anh (em). 10Anh (em) sẽ hành động căn cứ vào lời họ thông báo cho anh (em), từ nơi ĐỨC CHÚA chọn, và anh (em) sẽ lo đem ra thực hành đúng như họ chỉ giáo cho anh (em). 11Căn cứ vào lời họ chỉ giáo cho anh (em), và vào bản án họ công bố cho anh (em), anh (em) sẽ hành động, đúng như lời họ thông báo cho anh (em), không đi trệch bên phải bên trái. 12Người nào cả gan không nghe vị tư tế chầu chực ở đó để phụng sự ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hay không nghe vị thẩm phán, thì sẽ phải chết. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại trong Ít-ra-en. 13Nghe thấy thế, toàn dân sẽ sợ và không dám cả gan nữa.Các vua
14Khi anh (em) vào đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), khi anh (em) chiếm hữu và ở đất đó, nếu anh (em) nói: "(Chúng) tôi muốn tôn một vua lên cai trị (chúng) tôi, như các dân tộc chung quanh", 15thì anh (em) có thể tôn một vua mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chọn, lên cai trị anh (em); anh (em) phải tôn một người trong anh (em) lên làm vua cai trị anh (em); anh (em) không được đặt một người ngoại quốc, không phải là anh em của anh (em), lên cai trị anh (em).16Chỉ có điều là vua ấy không được có nhiều ngựa, và không được đưa dân trở về Ai-cập để có nhiều ngựa, vì ĐỨC CHÚA đã phán với anh em: "Các ngươi không được trở lại con đường ấy nữa! " 17Vua ấy cũng không được có nhiều vợ, kẻo tâm hồn bị lầm lạc. Vua cũng không được có quá nhiều vàng bạc. 18Khi lên ngôi trị vì, vua phải sao lại cho mình một bản thứ hai của luật này vào một cuốn sách, sao y bản các tư tế Lê-vi truyền lại. 19Luật này sẽ ở bên vua, vua phải đọc mọi ngày trong đời mình, để học cho biết kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của vua, biết giữ mọi lời trong Luật này và mọi thánh chỉ ấy, và đem ra thực hành. 20Như vậy lòng vua không kiêu ngạo với anh em mình, và vua không trệch khỏi mệnh lệnh mà qua bên phải bên trái, để vua và con cháu được trị vì lâu ngày ở giữa Ít-ra-en.
Hàng tư tế Lê-vi
1Các tư tế Lê-vi, toàn thể chi tộc Lê-vi, sẽ không được chung phần và hưởng gia nghiệp với Ít-ra-en: họ sẽ sống nhờ các lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA và nhờ gia nghiệp của Người. 2Họ không có gia nghiệp giữa các chi tộc anh em: chính ĐỨC CHÚA là gia nghiệp của họ, như Người đã phán với họ.3Đây là quyền lợi các tư tế được hưởng trên dân, trên những người dâng bò hay chiên dê làm lễ hy sinh: người ta sẽ biếu tư tế một cái vai, hai cái hàm và cái dạ dày. 4Anh (em) phải biếu tư tế sản phẩm đầu mùa lấy từ lúa mì, rượu mới, dầu tươi của anh (em), và từ lông chiên dê mới xén. 5Thật vậy, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã chọn họ trong mọi chi tộc, để họ và con cái họ ứng trực và phụng sự mọi ngày nhân danh ĐỨC CHÚA.
6Nếu một thầy Lê-vi từ bất cứ một thành nào của anh (em) trong toàn cõi Ít-ra-en, nơi họ đang cư ngụ, đến nơi ĐỨC CHÚA chọn, mỗi khi họ muốn, 7thì họ sẽ được phụng sự nhân danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ, như mọi anh em của họ là các thầy Lê-vi khác đang ứng trực tại đó trước nhan ĐỨC CHÚA; 8họ sẽ được ăn một phần bằng phần của những người kia, không kể tiền bán của cải cha ông để lại.
Các ngôn sứ
9Khi vào đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), thì anh (em) đừng học đòi những thói ghê tởm của các dân tộc ấy: 10giữa anh (em), không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, 11bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. 12Thật vậy, hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với ĐỨC CHÚA, và chính vì những điều ghê tởm ấy mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh (em). 13Anh (em) phải sống trọn hảo với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em). 14Các dân tộc anh (em) sắp trục xuất ấy thì nghe những thầy chiêm tinh, thầy bói, còn anh (em) thì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), không cho làm như vậy. 15Từ giữa anh (em), trong số các anh em của anh (em), ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh (em) hãy nghe vị ấy. 16Đó chính là điều mà anh (em) đã xin với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), tại núi Khô-rếp, trong ngày đại hội; anh (em) đã nói: "Chúng tôi không dám nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này nữa, kẻo phải chết." 17Bấy giờ ĐỨC CHÚA phán với tôi: "Chúng nói phải. 18Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. 19Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính Ta sẽ hạch tội nó. 20Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết."21Có khi anh (em) sẽ tự hỏi: "Làm sao chúng tôi biết được lời nào là lời ĐỨC CHÚA đã không phán? " 22Nếu điều ngôn sứ nói nhân danh ĐỨC CHÚA không ứng nghiệm, không xảy ra, thì không phải là lời ĐỨC CHÚA đã phán; ngôn sứ đã nói càn, anh (em) không phải sợ ngôn sứ ấy.
Kẻ sát nhân và các thành làm nơi ẩn náu (Đn 35: 9-28; Gs 20: 1-9)
1Khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã quét sạch các dân tộc ở trong đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), khi anh (em) đã trục xuất chúng và ở trong các thành, các nhà của chúng, 2thì anh (em) hãy tách ra ba thành ở giữa đất của anh (em), mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) để anh (em) chiếm hữu. 3Anh (em) hãy sửa sang đường sá; và lãnh thổ mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), cho anh (em) hưởng làm gia nghiệp, anh (em) hãy chia làm ba, để mọi kẻ sát nhân có thể ẩn náu ở đó.4Đây là những trường hợp mà kẻ sát nhân có thể đến đó ẩn náu và được sống: nếu nó vô ý giết người đồng loại mà trước đó nó không thù ghét. 5Như một người vào rừng đốn cây với đồng loại, tay người ấy vung rìu lên để chặt cây và lưỡi rìu tuột khỏi cán, trúng người đồng loại và người này chết; người kia có thể vào ẩn náu tại một trong các thành ấy và sẽ được sống. 6Nếu không, người đòi nợ máu, trong lúc tâm can sôi sục, sẽ rượt theo kẻ sát nhân, và vì đường dài nên đuổi kịp mà giết chết người ấy, trong khi người ấy không đáng phải án chết, vì trước đó không thù ghét nạn nhân. 7Vì vậy tôi truyền cho anh (em): "Anh (em) hãy tách ra ba thành."
8Nếu ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mở rộng lãnh thổ của anh (em), như đã thề với cha ông anh (em), và nếu Người ban cho anh (em) tất cả miền đất mà Người đã phán hứa sẽ ban cho cha ông anh (em) 9-với điều kiện là anh (em) giữ và đem ra thực hành tất cả mệnh lệnh mà hôm nay tôi truyền cho anh (em) đây, mà yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), và đi theo đường lối của Người mọi ngày-, thì anh (em) sẽ thêm ba thành nữa vào ba thành nói trên. 10Như thế, máu vô tội sẽ không đổ ra giữa đất của anh (em), đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp, và máu sẽ không đổ xuống đầu anh (em).
11Nhưng nếu có ai giết người đồng loại của mình, rình rập, xông vào giết chết người ấy, và người ấy chết, rồi nó vào ẩn náu tại một trong các thành ấy, 12thì các kỳ mục của thành nó sẽ sai người đến bắt nó đưa về, sẽ trao nó vào tay người đòi nợ máu, và nó phải chết. 13Mắt anh (em) đừng nhìn nó mà thương hại. Anh (em) phải khử trừ máu người vô tội, không cho tồn tại ở Ít-ra-en, và anh (em) sẽ được hạnh phúc.
Các ranh giới
14Anh (em) không được xê dịch ranh giới của người đồng loại anh (em), ranh giới các tiền nhân đã ấn định, trong gia nghiệp anh (em) được thừa hưởng trong miền đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) để anh (em) chiếm hữu.Các nhân chứng
15Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.16Nếu một người chứng gian đứng lên buộc tội một người để tố cáo người ấy về tội vi phạm luật, 17thì hai người đang có việc tranh tụng sẽ đứng trước nhan ĐỨC CHÚA, trước mặt các tư tế và các thẩm phán tại chức trong những ngày đó. 18Các thẩm phán sẽ điều tra kỹ lưỡng, và nếu thấy rằng nhân chứng ấy là một người chứng gian: nó đã cáo gian người anh em mình, 19thì anh em sẽ xử với nó, như nó đã định xử với anh em mình. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em). 20Nghe nói thế, những người khác sẽ sợ và không còn làm điều xấu như thế nữa giữa anh (em). 21Mắt anh (em) đừng nhìn mà thương hại.Luật báo phục tương xứngMạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.
Chiến tranh và các chiến binh
1Khi ra giao chiến với quân thù, nếu anh (em) thấy chiến mã chiến xa, và quân binh đông hơn anh (em), thì anh (em) đừng sợ chúng, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), Đấng đã đưa anh (em) lên từ đất Ai-cập, ở với anh (em). 2Khi anh em sắp sửa giao chiến thì vị tư tế sẽ tiến ra và nói với dân. 3Ông sẽ nói với họ: "Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Hôm nay anh em sắp sửa giao chiến với quân thù; đừng sờn lòng, đừng sợ hãi, đừng hoảng hốt, đừng run khiếp trước mặt chúng, 4vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, là Đấng đi với anh em, để chiến đấu giúp anh em chống lại quân thù của anh em, để cứu thoát anh em."5Các ký lục sẽ nói với dân rằng:"Ai là người đã xây nhà mới mà chưa khánh thành? Người ấy hãy đi về nhà, kẻo bị chết trận và người khác sẽ khánh thành.
6Ai là người đã trồng vườn nho mà chưa được hưởng những trái đầu tiên? Người ấy hãy đi về nhà, kẻo bị chết trận và người khác sẽ hưởng những trái đầu tiên.
7Ai là người đã đính hôn với một phụ nữ mà chưa cưới? Người ấy hãy đi về nhà, kẻo bị chết trận và người khác sẽ cưới nàng."
8Các ký lục sẽ còn nói thêm với dân rằng: "Ai là người sợ hãi và sờn lòng? Người ấy hãy đi về nhà, và đừng làm cho các anh em mình nản lòng như mình."
9Khi các ký lục nói với dân xong, thì người ta sẽ đặt những người chỉ huy quân đội đứng đầu dân.
Đánh chiếm các thành
10Khi tiến đánh một thành, anh (em) phải kêu gọi họ giảng hoà. 11Nếu thành ấy đồng ý giảng hoà với anh (em) và mở cửa cho anh (em), thì toàn dân ở đó sẽ phải làm việc lao dịch cho anh (em) và làm tôi anh (em). 12Nhưng nếu thành ấy không chịu cầu hoà với anh (em) và khai chiến với anh (em), thì anh (em) sẽ vây hãm thành đó. 13ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ trao thành ấy vào tay anh (em), và anh (em) sẽ dùng lưỡi gươm giết tất cả đàn ông con trai trong thành. 14Chỉ có đàn bà con trẻ, gia súc và tất cả những gì ở trong thành, tất cả những gì chiếm được trong thành, thì anh (em) mới được giữ lấy làm chiến lợi phẩm; anh (em) sẽ được ăn những gì đã chiếm của quân thù, những thứ mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em).15Anh (em) hãy xử như thế với tất cả những thành ở rất xa anh (em), những thành không thuộc số những thành của các dân tộc ở đây. 16Chỉ có những thành của các dân tộc này, mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp, thì anh (em) sẽ không để cho một sinh vật nào được sống. 17Thật vậy, anh (em) sẽ phải loại trừ chúng hoàn toàn: người Khết và người E-mô-ri, người Ca-na-an và người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã truyền cho anh (em); 18như thế, chúng sẽ không dạy anh em học đòi mọi điều ghê tởm chúng làm để kính các thần của chúng, khiến anh em phạm tội nghịch cùng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em.
19Khi vây hãm một thành lâu ngày để đánh, để chiếm thành, anh (em) không được vung rìu phá cây cối của thành, vì anh (em) sẽ được ăn hoa trái những cây ấy; anh (em) không được chặt những cây ấy. Cây ngoài đồng đâu phải là con người để anh (em) vây hãm? 20Chỉ có cây mà anh (em) biết không phải là cây ăn trái, thì anh (em) mới được phá, được chặt để dựng những công sự vây hãm thành đang đánh nhau với anh (em), cho đến khi thành thất thủ.
Trường hợp không tìm ra kẻ sát nhân
1Nếu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) để anh (em) chiếm hữu, phát hiện một xác chết nằm ngoài đồng, mà không biết ai đã giết, 2thì các kỳ mục và thẩm phán của anh (em) sẽ đi ra và đo khoảng cách của các thành ở chung quanh xác chết, 3xem thành nào gần xác chết nhất. Các kỳ mục thành ấy sẽ lấy một bò tơ cái chưa bị bắt làm việc và chưa phải mang ách. 4Các kỳ mục thành ấy sẽ đưa con bò cái tơ xuống một khe suối luôn có nước chảy, một nơi không cày cấy gieo trồng, và họ sẽ đánh gãy ót con bò cái tơ tại đó, trong khe suối. 5Bấy giờ các tư tế, con cái Lê-vi, sẽ tiến lại, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã chọn họ để họ phụng sự Người và chúc phúc nhân danh ĐỨC CHÚA, và căn cứ vào lời họ mà mọi vụ tranh tụng và đả thương được giải quyết. 6Tất cả các kỳ mục thành ấy, là những người ở gần xác chết nhất, sẽ rửa tay trên con bò cái tơ đã bị đánh gãy ót trong khe suối. 7Họ sẽ lên tiếng nói: "Tay chúng tôi đã không đổ máu này, và mắt chúng tôi đã không nhìn thấy. 8Lạy ĐỨC CHÚA, xin xá tội cho dân Ngài là Ít-ra-en, mà Ngài đã giải thoát, và đừng để máu vô tội ở lại giữa dân Ngài là Ít-ra-en." Và họ sẽ được xá tội về vụ đổ máu đó. 9Còn anh (em), anh (em) sẽ khử trừ máu vô tội, không cho tồn tại giữa anh (em), vì anh (em) làm điều ĐỨC CHÚA coi là ngay thẳng.Cưới phụ nữ bị bắt trong chiến tranh
10Khi anh (em) ra giao chiến với quân thù, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), trao chúng vào tay anh (em), nếu anh (em) bắt được tù, 11và thấy trong đám tù một người đàn bà duyên dáng mà đem lòng quyến luyến người ấy và lấy làm vợ, 12thì anh (em) sẽ đưa nàng vào trong nhà mình. Nàng sẽ cạo đầu, cắt móng tay, 13cởi áo mặc khi bị bắt; nàng sẽ ở trong nhà anh (em) và khóc cha mẹ nàng một tháng tròn. Sau đó anh (em) sẽ ăn nằm với nàng, cưới nàng và nàng sẽ là vợ anh (em). 14Trong trường hợp anh (em) không thích nàng nữa, thì anh (em) sẽ để cho nàng đi đâu tuỳ ý nàng; anh (em) không được phép bán nàng đổi lấy bạc, cũng không được hành hạ nàng, vì anh (em) đã cưỡng bức nàng.Quyền trưởng nam
15Khi một người đàn ông có hai vợ, một vợ được yêu, một vợ không được yêu, và cả người được yêu lẫn người không được yêu đều sinh con cho người ấy, mà con trai trưởng lại là con của người không được yêu, 16thì khi chia gia tài cho các con, người đàn ông ấy không được dành quyền trưởng nam cho đứa con của người vợ mình yêu, khiến đứa con của người vợ không được yêu, là con trai trưởng, bị thiệt. 17Trái lại người đàn ông ấy phải nhìn nhận đứa con của người vợ không được yêu là trưởng nam, mà chia cho nó hai phần sản nghiệp: nó là hoa quả đầu đời trai tráng của người ấy, nên nó được quyền trưởng nam.Đứa con bất trị
18Khi có đứa con ngỗ nghịch và bất trị, không nghe lời cha mẹ, cha mẹ có sửa dạy, nó cũng chẳng chịu nghe, 19thì cha mẹ nó sẽ bắt lấy nó, đưa ra cửa thành cho các kỳ mục địa phương 20và sẽ nói với các kỳ mục trong thành: "Con chúng tôi đây ngỗ nghịch và bất trị, không nghe lời chúng tôi, nó rượu chè phóng đãng." 21Mọi người trong thành sẽ ném đá cho nó chết và nó phải chết. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em). Nghe chuyện ấy, toàn thể Ít-ra-en sẽ sợ.Những chỉ thị khác
22Khi một người có tội đáng phải án chết đã bị xử tử, và anh (em) đã treo nó lên cây, 23thì xác nó không được để qua đêm trên cây, nhưng anh (em) phải chôn ngay hôm ấy, vì người bị treo là đồ bị Thiên Chúa nguyền rủa. Anh (em) không được làm cho đất của anh (em) ra ô uế, đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp.3Anh (em) phải làm như thế đối với con lừa của họ, phải làm như thế đối với áo choàng của họ, phải làm như thế đối với tất cả những gì người anh em của anh (em) đánh mất mà anh (em) bắt được; anh (em) không được bỏ mặc làm ngơ.
4Khi anh (em) thấy lừa hay bò của người anh em mình ngã trên đường, thì đừng bỏ mặc làm ngơ, nhưng phải giúp người anh em đỡ chúng dậy.
5Đàn bà không được mặc quần áo đàn ông; đàn ông không được mang y phục đàn bà, vì hễ ai làm những việc ấy thì là điều ghê tởm đối với ĐỨC CHÚA.
6Nếu trên đường đi, anh (em) gặp một tổ chim, ở trên bất cứ cây nào hay ở dưới đất, trong đó có chim con hoặc trứng, và chim mẹ đang ủ chim con hay ấp trứng, thì anh (em) không được bắt cả mẹ lẫn con. 7Anh (em) phải thả chim mẹ, còn chim con thì được bắt. Như vậy anh (em) sẽ được hạnh phúc và được sống lâu.
8Khi xây nhà mới, anh (em) phải làm lan can chung quanh mái. Như vậy anh (em) không để cho máu đổ ra trong nhà anh (em), trong trường hợp có ai ngã từ mái xuống.
9Anh (em) không được gieo trong vườn nho của anh (em) một loại cây thứ hai nào, kẻo tất cả trở thành của thánh: cả cái anh (em) gieo lẫn hoa lợi vườn nho.
10Anh (em) không được bắt bò và lừa cày chung với nhau.
11Anh (em) không được mặc thứ vải bằng sợi len và sợi gai dệt chung với nhau.
12Anh (em) hãy làm những tua ở bốn mép áo anh (em) dùng để đắp.
Xúc phạm đến danh dự một thiếu nữ
13Khi một người đàn ông lấy vợ và ăn nằm với nàng, rồi ghét bỏ nàng, 14vu khống và bôi xấu danh dự nàng mà nói: "Tôi đã lấy người đàn bà này, đã gần gũi với cô ấy và không thấy dấu nào chứng tỏ cô ấy còn trinh", 15thì cha mẹ cô gái sẽ lấy những dấu chứng tỏ cô gái còn trinh và đưa ra cửa thành cho các kỳ mục thành ấy. 16Người cha cô gái sẽ nói với các kỳ mục: "Tôi đã gả con gái cho người đàn ông này, nhưng anh ta ghét bỏ nó; 17bây giờ anh ta vu khống nó và nói: "Tôi không thấy những dấu chứng tỏ con gái ông còn trinh. Vậy đây là những dấu chứng tỏ con gái tôi còn trinh." Họ sẽ mở chiếc áo choàng ra trước mặt các kỳ mục trong thành. 18Các kỳ mục trong thành sẽ bắt người chồng và sửa phạt: 19họ sẽ bắt người ấy nộp phạt một trăm thỏi bạc, và sẽ trao số bạc đó cho người cha cô gái, vì người ấy đã bôi xấu danh dự của một trinh nữ Ít-ra-en. Nàng sẽ là vợ người ấy và suốt đời người ấy không thể rẫy nàng. 20Nhưng nếu điều đó có thật, nếu người ta không tìm thấy nơi cô gái những dấu chứng tỏ cô còn trinh, 21thì họ sẽ lôi cô gái ra cửa nhà cha nàng; người trong thành của nàng sẽ ném đá nàng cho chết và nàng sẽ phải chết, vì nàng đã làm điều đồi bại trong Ít-ra-en, khi làm điếm trong nhà cha mình. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em).Ngoại tình và thông dâm
22Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả; hai sẽ phải chết: người đàn ông đã nằm với người đàn bà, và cả người đàn bà. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại ở Ít-ra-en.23Khi một cô gái còn trinh đã đính hôn với một người đàn ông, mà một người đàn ông khác gặp cô trong thành và nằm với cô, 24thì anh (em) sẽ lôi cả hai ra cửa thành ấy và ném đá, và chúng sẽ phải chết: cô gái, vì lý do ở trong thành mà đã không kêu cứu, và người đàn ông, vì lý do đã cưỡng bức vợ người đồng loại. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em). 25Nhưng nếu người đàn ông gặp ở ngoài đồng cô gái đã đính hôn, bắt lấy nàng và nằm với nàng, thì chỉ một mình người đàn ông đã nằm với nàng sẽ phải chết; 26còn cô gái, thì anh (em) đừng làm gì nàng, nàng không có tội đáng chết. Trường hợp cũng như một người xông vào người đồng loại để giết người ấy: 27vì người đàn ông kia đã gặp cô ngoài đồng; cô gái đính hôn đã kêu mà không ai cứu.
28Khi một người đàn ông gặp một cô gái chưa đính hôn, nắm lấy nàng và nằm với nàng, và họ bị bắt gặp, 29thì người đàn ông đã nằm với nàng phải nộp cho cha cô gái năm mươi thỏi bạc; nàng sẽ là vợ người ấy, bởi lẽ người ấy đã cưỡng hiếp nàng, và suốt đời người ấy không thể rẫy nàng.
Những người không được tham dự đại hội
2Ai bị giập tinh hoàn hay bị cắt dương vật sẽ không được vào đại hội của ĐỨC CHÚA. 3Người con lai không được vào đại hội của ĐỨC CHÚA; cả đến đời thứ mười, nó cũng không được vào đại hội của ĐỨC CHÚA. 4Người Am-mon và người Mô-áp không được vào đại hội của ĐỨC CHÚA; cả đến đời thứ mười, chúng cũng không được vào đại hội của ĐỨC CHÚA, và mãi mãi như vậy. 5Lý do là vì chúng đã không mang bánh và nước ra đón anh em trên đường, khi anh em ra khỏi Ai-cập, và vì, để hại anh (em), Mô-áp đã thuê Bi-lơ-am, con của Bơ-o, từ Pơ-tho tại miền A-ram Na-ha-ra-gim, đến nguyền rủa anh (em). 6Nhưng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã không muốn nghe Bi-lơ-am, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã đổi lời nguyền rủa thành lời chúc phúc cho anh (em) được nhờ, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), yêu thương anh (em). 7Suốt đời anh (em) và mãi mãi, anh (em) không được theo đòi chúng để được bình an và thịnh vượng.8Anh (em) không được ghê tởm người Ê-đôm, vì họ là anh em của anh (em). Anh (em) không được ghê tởm người Ai-cập, vì anh (em) đã là ngoại kiều trong đất họ. 9Con cháu họ sẽ sinh ra, đến đời thứ ba sẽ được vào đại hội của ĐỨC CHÚA.
Giữ trại cho thanh sạch
10Khi ra đóng quân đối diện với quân thù, anh (em) phải giữ mình khỏi mọi điều xấu. 11Khi ở giữa anh (em) có một người đàn ông không thanh sạch, vì xuất tinh ban đêm, thì người ấy phải ra ngoài trại, và không được trở vào trong trại; 12lúc chiều tà, người ấy sẽ tắm rửa bằng nước, và khi mặt trời lặn, sẽ trở vào trong trại.13Anh (em) phải có một chỗ ở bên ngoài trại, và anh (em) sẽ ra đó mà đi ngoài. 14Trong đồ đạc của anh (em), phải có một cái xẻng nhỏ, và khi ra ngồi ngoài đó, anh (em) sẽ dùng xẻng đó mà đào lỗ phóng uế, rồi lấp đi. 15Vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đi đi lại lại giữa trại anh (em) để giải thoát anh (em) và trao thù địch của anh (em) cho anh (em). Vậy trại anh (em) phải là trại thánh, kẻo Người thấy có gì chướng nơi anh (em) mà không đi theo anh (em) nữa.
Luật xã hội và luật phượng tự
16Một người nô lệ đã trốn nhà chủ mà đến với anh (em), anh (em) đừng nộp nó lại cho chủ. 17Nó sẽ ở với anh (em), giữa anh (em), tại nơi nó chọn, trong một thành nào của anh (em) mà nó thích; anh (em) không được ngược đãi nó.18Con gái Ít-ra-en không được làm điếm thần, con trai Ít-ra-en không được làm điếm thần. 19Anh (em) không được đưa vào nhà ĐỨC CHÚA tiền công của một con điếm hay tiền lương của một thằng điếm để làm lễ vật khấn hứa, vì cả hai đều ghê tởm đối với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em).
20Anh (em) không được cho người anh (em) mình vay lấy lãi: vay bạc, vay lương thực, vay bất cứ thứ gì sinh lãi. 21Người nước ngoài, anh (em) được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh (em) thì không được cho vay lấy lãi; như vậy, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) sẽ chúc phúc cho anh (em), trong mọi công việc tay anh (em) làm, trên đất anh (em) sắp vào chiếm hữu.
22Khi anh (em) khấn hứa với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), điều gì, thì đừng trì hoãn thi hành, vì chắc chắn Thiên Chúa sẽ đòi anh (em) điều đó, và anh (em) sẽ mang tội. 23Nhưng nếu anh (em) tránh không khấn hứa, thì anh (em) không mang tội. 24Điều môi miệng anh (em) nói ra, anh (em) phải giữ và thi hành như anh (em) đã tự nguyện khấn hứa với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), và như miệng anh (em) đã nói ra.
25Khi vào vườn nho của người đồng loại của anh (em), thì anh (em) có thể ăn nho tuỳ thích, ăn cho đến no, nhưng không được bỏ vào giỏ của mình. 26Khi vào đồng lúa của người đồng loại anh (em), thì anh (em) có thể lấy tay bứt những bông lúa, nhưng không được tra liềm cắt lúa của người đồng loại anh (em).
Ly dị
1Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà. 2Ra khỏi nhà người ấy, nếu nàng đi lấy chồng khác, 3mà người chồng sau lại ghét bỏ nàng, viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà, hoặc nếu người chồng sau đã lấy nàng làm vợ mà chết, 4thì người chồng đầu tiên đã đuổi nàng đi không thể lấy nàng làm vợ một lần nữa, sau khi nàng đã ra ô uế. Đó là điều ghê tởm trước nhan ĐỨC CHÚA; anh (em) không được làm cho miền đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp, phải mang tội.Biện pháp bảo vệ
5Khi một người đàn ông mới cưới vợ, thì người ấy không phải đi lính, và người ta sẽ không bắt làm công tác nào; người ấy sẽ được miễn, được ở nhà một năm, và sẽ là niềm vui cho người vợ đã cưới.6Không được giữ cối xay bột làm đồ cầm, dù chỉ một nửa trên, vì như thế là giữ chính mạng người làm đồ cầm.
7Nếu thấy ai bắt cóc một người anh em mình trong hàng con cái Ít-ra-en, hành hạ và bán người đó đi, thì kẻ bắt cóc phải chết. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em).
8Về bệnh phung cùi, anh (em) hãy ý tứ giữ cẩn thận và thi hành tất cả những gì các tư tế Lê-vi chỉ dẫn cho anh em; anh em hãy lo thực hành như tôi đã truyền cho họ. 9Hãy nhớ cách ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã xử với bà Mi-ri-am trên đường, khi anh em ra khỏi Ai-cập.
10Khi anh (em) cho người đồng loại vay cái gì, thì không được vào nhà người ấy mà bắt đồ cầm. 11Anh (em) sẽ đứng ngoài, và người mà anh (em) cho vay sẽ mang đồ cầm ra ngoài cho anh (em). 12Nếu người ấy nghèo, anh (em) sẽ không đi ngủ mà còn giữ đồ cầm của người ấy. 13Anh (em) phải đem trả lại đồ cầm cho người ấy khi mặt trời lặn; người ấy sẽ đắp áo choàng của mình mà ngủ, sẽ chúc phúc cho anh (em); anh (em) sẽ là người công chính trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em).
14Anh (em) không được bóc lột người làm thuê nghèo khó bần cùng, dù người ấy là một người anh em của anh (em) hay là một ngoại kiều ở trong đất nước của anh (em), trong các thành của anh (em). 15Chính ngày hôm ấy, anh (em) phải trả công cho họ, đừng để mặt trời lặn mà không trả công, vì họ nghèo khổ và nóng lòng mong đợi được trả công; như vậy họ sẽ không kêu lên ĐỨC CHÚA tố cáo anh (em), và anh (em) sẽ không mang tội.
16Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử về tội của mình.
17Anh (em) không được làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều và cô nhi, không được giữ áo của người goá bụa làm đồ cầm. 18Anh (em) hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên Ai-cập, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã giải thoát anh (em) ra khỏi đó. Vì vậy tôi truyền cho anh (em) thực hành điều đó.
19Khi anh (em) gặt lúa trong ruộng mình, mà bỏ sót một bó lúa trong ruộng, thì không được quay lại mà lấy; bó lúa ấy dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ; như vậy, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chúc phúc cho anh (em) trong mọi việc tay anh (em) làm.
20Khi hái ô-liu, thì anh (em) không được trở lại tìm trái sót; những trái đó dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ.
21Khi hái nho, thì anh (em) không được mót lại; những trái còn sót dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ.
22Anh em hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên đất Ai-cập. Vì vậy, tôi truyền cho anh (em) thực hành điều đó.
4Anh (em) không được bịt mõm con bò đang đạp lúa.
Luật về anh em chồng
5Khi có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng. 6Đứa con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên của người chết sẽ không bị xoá khỏi Ít-ra-en. 7Nhưng nếu người đàn ông ấy không thích lấy chị dâu hay em dâu mình, thì nàng sẽ lên cửa thành, gặp các kỳ mục và thưa: "Người anh em chồng tôi từ chối không chịu lưu truyền tên tuổi của anh em mình ở Ít-ra-en, người ấy không muốn chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với tôi." 8Các kỳ mục trong thành sẽ gọi người đàn ông đến và nói với người ấy. Người ấy sẽ đứng đấy và nói: "Tôi không thích lấy cô ấy." 9Người chị dâu hay em dâu sẽ đến gần người ấy trước mặt các kỳ mục, rút một chiếc dép người ấy ra khỏi chân, nhổ vào mặt người ấy và lên tiếng nói: "Kẻ không xây nhà cho người anh em mình thì phải xử như thế đó! " 10Trong Ít-ra-en, người ta sẽ gọi tên người ấy là "nhà kẻ bị lột dép."Không được khiếm nhã trong khi ẩu đả
11Khi hai người đàn ông đánh nhau, mà vợ của một trong hai người lại gần để cứu chồng khỏi tay địch thủ và đưa tay nắm lấy chỗ kín của người này, 12thì anh (em) phải chặt tay người đàn bà ấy. Mắt anh (em) đừng nhìn nó mà thương hại.Phụ lục
13Anh (em) không được có trong bao bị của anh (em) hai quả cân khác nhau, một nặng một nhẹ; 14anh (em) không được có trong nhà của anh (em) hai thùng khác nhau, một lớn một nhỏ. 15Anh (em) phải có một quả cân nguyên vẹn và chính xác, một thùng nguyên vẹn và chính xác, để anh (em) được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 16Thật vậy, hễ ai làm những điều ấy, hễ ai làm điều bất công, thì là điều ghê tởm đối với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em).17Anh (em) hãy nhớ A-ma-lếch đã xử thế nào với anh (em) trên đường, khi anh em ra khỏi Ai-cập: 18nó đã đón đường anh (em) và đánh tập hậu mọi kẻ lết theo sau, trong khi anh (em) mệt lả và kiệt sức; nó đã không kính sợ Thiên Chúa. 19Vậy khi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), cho anh (em) được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp để anh (em) chiếm hữu, thì anh (em) sẽ xoá hẳn tên tuổi A-ma-lếch, khiến cho dưới gầm trời, không còn ai nhớ đến nó nữa: anh (em) đừng quên!
Sản phẩm đầu mùa
1Khi anh (em) vào đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp, khi anh (em) chiếm hữu và ở đất đó, 2thì hãy lấy một phần mọi nông sản đầu mùa anh (em) thu hoạch được từ miền đất của anh (em), mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). Anh (em) hãy để những thứ ấy vào giỏ, rồi đi đến nơi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), chọn cho Danh Người ngự. 3Anh (em) sẽ đến với tư tế tại chức trong những ngày đó và sẽ thưa với ông:"Hôm nay tôi xin trình với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông, rằng tôi đã vào miền đất mà ĐỨC CHÚA đã thề với cha ông chúng tôi là Người sẽ ban cho chúng tôi."4Tư tế sẽ nhận lấy giỏ từ tay anh (em) và đem đặt trước bàn thờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em). 5Bấy giờ, anh (em) sẽ lên tiếng thưa trước tôn nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) rằng:
6Người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi. 7Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu. 8ĐỨC CHÚA đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập. 9Người đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. 10Và bây giờ, lạy ĐỨC CHÚA, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con."
11Anh (em) sẽ liên hoan cùng với các thầy Lê-vi và người ngoại kiều sống giữa anh (em), vì mọi điều tốt mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã ban cho anh (em) và gia đình anh (em).
Thuế thập phân ba năm một lần
12Năm thứ ba, tức là năm nộp thuế thập phân, sau khi anh (em) đã trích ra một phần mười hoa lợi mà đem cho thầy Lê-vi, người ngoại kiều và cô nhi quả phụ, và họ đã được ăn uống no nê trong các thành của anh (em), 13thì anh (em) sẽ đến thưa trước tôn nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em):14Con đã không ăn của đó khi có tang, đã không lấy một phần của đó khi con bị ô uế, đã không dùng mà cúng người chết. Con đã nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của con, đã làm theo mọi điều Ngài truyền cho con. 15Từ thánh điện của Ngài, từ trời cao, xin Ngài nhìn xuống, xin chúc phúc cho dân Ngài là Ít-ra-en, cho đất đai mà Ngài đã ban cho chúng con, như Ngài đã thề với cha ông chúng con, đất tràn trề sữa và mật."
III. NHỮNG DIỄN TỪ KẾT THÚC
Ít-ra-en là dân của ĐỨC CHÚA
16Hôm nay, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), truyền cho anh (em) đem ra thực hành các thánh chỉ và quyết định này. Anh (em) phải hết lòng hết dạ tuân giữ và đem ra thực hành các điều ấy.17Hôm nay, anh (em) đã làm cho ĐỨC CHÚA tuyên bố rằng Người sẽ là Thiên Chúa của anh (em), rằng anh (em) phải đi theo đường lối của Người, giữ các thánh chỉ, mệnh lệnh, quyết định của Người, và nghe tiếng Người. 18Hôm nay, ĐỨC CHÚA đã khiến anh (em) tuyên bố rằng anh (em) sẽ là dân thuộc quyền sở hữu của Người như Người đã phán với anh (em), và rằng anh (em) sẽ giữ mọi mệnh lệnh của Người, 19rằng Người sẽ cho anh (em) vượt mọi dân tộc Người đã tạo dựng, xét về vinh dự, danh tiếng và vinh quang, rằng anh (em) sẽ là một dân thánh hiến cho ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), như Người đã phán.
Ghi khắc Luật vào đá. Các nghi lễ.
1Ông Mô-sê cùng với các kỳ mục của Ít-ra-en đã truyền cho dân rằng: "Hãy giữ tất cả mệnh lệnh mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay. 2Ngày anh (em) sang qua sông Gio-đan vào đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), anh (em) sẽ dựng những tảng đá lớn và lấy vôi mà quét. 3Khi sang qua sông, anh (em) sẽ viết trên tảng đá ấy mọi lời của Luật này; như vậy anh (em) sẽ được vào đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), đất tràn trề sữa và mật, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã phán với anh (em).4Khi đã sang qua sông Gio-đan, anh (em) hãy dựng những tảng đá ấy trên núi Ê-van, như tôi truyền cho anh (em) hôm nay, và hãy lấy vôi mà quét. 5Ở đó anh (em) hãy xây một bàn thờ để kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), một bàn thờ bằng những viên đá anh (em) đã không dùng sắt mà đẽo. 6Anh (em) hãy dùng những viên đá nguyên vẹn mà xây bàn thờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), và trên đó, hãy dâng lên ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), những lễ toàn thiêu. 7Anh (em) hãy dâng những hy lễ kỳ an, hãy ăn tại đó và liên hoan trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em); 8anh (em) hãy viết trên các tảng đá mọi lời của Luật này: hãy khắc rõ ràng."
9Ông Mô-sê cùng với các tư tế Lê-vi nói với toàn thể Ít-ra-en rằng:
10Anh (em) hãy nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), và đem ra thực hành những mệnh lệnh và thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay."
11Hôm ấy, ông Mô-sê đã truyền cho dân rằng: 12"Khi anh (em) đã sang qua sông Gio-đan thì đây: Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Ít-xa-kha, Giu-se và Ben-gia-min sẽ đứng trên núi Ga-ri-dim để chúc phúc cho dân; 13và đây: Rưu-vên, Gát, A-se, Dơ-vu-lun, Đan và Náp-ta-li sẽ đứng trên núi Ê-van để nguyền rủa.
14Các thầy Lê-vi sẽ cất giọng và lớn tiếng nói với mọi người Ít-ra-en:
15Đáng nguyền rủa thay người tạc tượng đúc tượng -điều ghê tởm đối với ĐỨC CHÚA, đồ vật do tay thợ làm ra- và đặt ở nơi bí mật mà thờ! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
16Đáng nguyền rủa thay kẻ khinh dể cha mẹ! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
17Đáng nguyền rủa thay kẻ xê dịch ranh giới người đồng loại! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
18Đáng nguyền rủa thay kẻ làm cho người mù đi lạc đường! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
19Đáng nguyền rủa thay kẻ làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều, cô nhi quả phụ! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
20Đáng nguyền rủa thay kẻ nằm với vợ của cha mình, vì nó xâm phạm đến quyền làm chồng của cha mình! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
21Đáng nguyền rủa thay kẻ nằm với con vật nào! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
22Đáng nguyền rủa thay kẻ nằm với chị em mình, con gái của cha hay mẹ mình! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
23Đáng nguyền rủa thay kẻ nằm với mẹ vợ mình! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
24Đáng nguyền rủa thay kẻ giết trộm người đồng loại! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
25Đáng nguyền rủa thay kẻ nhận quà hối lộ để giết người vô tội! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
26Đáng nguyền rủa thay kẻ không giữ trọn những lời của Luật này mà đem ra thực hành! Toàn dân sẽ thưa: A-men! "
Các lời chúc phúc (Lv 26: 3-13; Đnl 7:12 -24 )
1Nếu anh (em) thật sự nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mà lo đem ra thực hành tất cả những mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay, thì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho anh (em) vượt mọi dân tộc trên mặt đất, 2và mọi phúc lành sau đây sẽ đến với anh (em) và bao trùm anh (em), bởi vì anh (em) đã nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em):3Anh (em) sẽ được chúc phúc trong thành, anh (em) sẽ được chúc phúc ngoài đồng. 4Con cái của lòng dạ anh (em), hoa màu của đất đai anh (em), đàn con của gia súc anh (em), bò con, chiên con của anh (em) đều được chúc phúc. 5Giỏ của anh (em) và cối nhồi bột của anh (em) sẽ được chúc phúc. 6Anh (em) sẽ được chúc phúc khi vào, anh (em) sẽ được chúc phúc khi ra.
7Các kẻ thù anh (em) đứng lên chống lại anh (em), ĐỨC CHÚA sẽ làm cho chúng bị đánh bại trước mặt anh (em): khi ra đánh anh (em), chúng cùng đi một lối, lúc phải trốn anh (em), chúng tháo chạy bảy đường. 8ĐỨC CHÚA sẽ truyền cho phúc lành ở với anh (em) trong kho lúa và trong mọi công việc tay anh (em) làm, và Người sẽ chúc phúc cho anh (em) trong đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em).
9ĐỨC CHÚA sẽ đặt anh (em) lên làm dân thánh hiến cho Người, như Người đã thề với anh (em), nếu anh (em) giữ các mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), và nếu anh (em) đi theo đường lối của Người. 10Mọi dân trên mặt đất sẽ thấy rằng anh (em) được mang danh ĐỨC CHÚA, và chúng sẽ sợ anh (em). 11Để anh (em) được hạnh phúc, ĐỨC CHÚA sẽ cho anh (em) thành công, mà cho anh (em) sinh nhiều con cái, gia súc anh (em) sinh sôi nảy nở, đất đai anh (em) sinh nhiều hoa trái, trên đất đai mà ĐỨC CHÚA đã thề với cha ông anh (em) là Người sẽ ban cho anh (em). 12ĐỨC CHÚA sẽ mở trời, là kho tàng quý báu của Người, cho anh (em), để ban mưa đúng mùa cho đất anh (em), và chúc phúc cho mọi việc tay anh (em) làm. Anh (em) sẽ cho nhiều dân tộc vay mượn, còn chính anh (em) sẽ không phải vay mượn. 13ĐỨC CHÚA sẽ đặt anh (em) đứng đầu chứ không đứng cuối, anh (em) sẽ chỉ đi lên chứ không đi xuống, nếu anh (em) nghe các mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mà hôm nay tôi truyền cho anh (em) giữ và đem ra thực hành, 14và nếu anh (em) tuân cứ mọi điều tôi truyền cho anh (em) hôm nay, không đi trệch bên phải bên trái, mà theo các thần khác và phụng thờ chúng.
Các lời nguyền rủa (Lv 26: 14 -46 )
15Nhưng nếu anh (em) không nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), không lo đem ra thực hành tất cả những mệnh lệnh và thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay, thì những lời nguyền rủa sau đây sẽ đến với anh (em) và bao trùm anh (em):16Anh (em) sẽ bị nguyền rủa trong thành, anh (em) sẽ bị nguyền rủa ngoài đồng. 17Giỏ của anh (em) và cối nhồi bột của anh (em) sẽ bị nguyền rủa. 18Con cái của lòng dạ anh (em), hoa màu của đất đai anh (em), bò con, chiên con của anh (em) sẽ bị nguyền rủa. 19Anh (em) sẽ bị nguyền rủa khi vào, anh (em) sẽ bị nguyền rủa khi ra.
20ĐỨC CHÚA sẽ khiến anh (em) mắc tai hoạ, phải hoảng sợ, bị đe doạ, trong mọi công việc tay anh (em) làm, cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt và mau lẹ biến mất, vì sự gian ác anh (em) làm khi lìa bỏ ĐỨC CHÚA. 21ĐỨC CHÚA sẽ cho ôn dịch bám vào anh (em), cho đến khi nó tận diệt anh (em), khiến anh (em) không còn trên đất anh (em) sắp vào chiếm hữu. 22ĐỨC CHÚA sẽ làm cho anh (em) bị suy mòn, nóng sốt, viêm, phỏng, bị hạn hán, và làm cho lúa mì bị úa vàng, bị sâu đục: các thứ đó sẽ theo sát anh (em) cho đến khi anh (em) biến mất. 23Trời của anh (em), trên đầu anh (em), sẽ là đồng, đất dưới chân anh (em) sẽ là sắt. 24Thay vì làm mưa trên đất anh (em), ĐỨC CHÚA sẽ cho cát và bụi từ trời rơi xuống, cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt.
25ĐỨC CHÚA sẽ làm cho anh (em) bị đánh bại trước mặt quân thù: khi ra đánh chúng, anh (em) cùng đi một lối, lúc phải trốn chúng, anh (em) tháo chạy bảy đường. Anh (em) sẽ làm cho mọi dân tộc trên mặt đất phải gớm ghiếc. 26Xác chết của anh (em) sẽ làm mồi cho mọi chim trời, và cho các thú vật trên mặt đất, mà không ai xua đuổi chúng.
27ĐỨC CHÚA sẽ làm cho anh (em) bị ung nhọt Ai-cập, bị u bướu, ghẻ lở, ngứa ngáy, mà không thể chữa khỏi. 28ĐỨC CHÚA sẽ làm cho anh (em) bị điên khùng, mù loà, loạn trí. 29Anh (em) sẽ mò mẫm giữa trưa, như người mù mò mẫm trong bóng tối, và sẽ không thấy đường mà đi.
30Anh (em) sẽ đính hôn với một phụ nữ, nhưng người khác sẽ cưỡng hiếp nàng; anh (em) sẽ xây nhà, nhưng không được ở, sẽ trồng vườn nho, nhưng không được hưởng trái đầu tiên. 31Bò của anh (em) sẽ bị hạ trước mắt anh (em), mà anh (em) không được ăn thịt; lừa của anh (em) sẽ bị cướp trước mặt anh (em) và sẽ không trở về với anh (em); chiên dê của anh (em) sẽ bị nộp cho quân thù, mà không ai cứu giúp anh (em). 32Con trai con gái của anh (em) sẽ bị nộp cho một dân khác; mắt anh (em) sẽ chứng kiến và suốt ngày mòn mỏi trông chờ chúng, nhưng anh (em) đành chịu bó tay. 33Hoa màu của đất đai anh (em) và tất cả công lao vất vả của anh (em), thì một dân anh (em) không biết sẽ được hưởng; mãi mãi, anh (em) sẽ chỉ là người bị áp bức, bị hành hạ. 34Anh (em) sẽ ra điên khùng vì cảnh tượng mắt anh (em) chứng kiến. 35ĐỨC CHÚA sẽ làm cho anh (em) bị ung độc không thể chữa lành ở đầu gối và ở đùi, từ bàn chân cho tới đỉnh đầu.
36ĐỨC CHÚA sẽ bắt anh (em) và vua mà anh (em) tôn lên cai trị anh (em), đi đến với một dân tộc anh (em) và cha ông anh (em) không biết, tại đó anh (em) sẽ phụng thờ các thần khác, là gỗ, là đá. 37Anh (em) sẽ trở nên nỗi kinh hoàng, nên trò cười, nên đầu đề châm chọc cho mọi dân ở những nơi ĐỨC CHÚA sẽ dẫn anh (em) đến.
38Hạt giống anh (em) mang ra đồng thì nhiều, nhưng chỉ thu hoạch được ít, vì châu chấu sẽ phá hết. 39Anh (em) sẽ trồng và chăm sóc vườn nho, nhưng rượu anh (em) sẽ không được uống và cả trái nho cũng chẳng được hái, vì sâu bọ sẽ ăn mất. 40Anh (em) sẽ có những cây ô-liu trên toàn lãnh thổ anh (em), nhưng không có dầu mà xức, vì trái ô-liu của anh (em) sẽ rụng. 41Anh (em) sẽ sinh con trai con gái, nhưng chúng sẽ không thuộc về anh (em), vì chúng sẽ bị đi đày. 42Mọi cây cối và hoa màu của đất đai anh (em) sẽ bị bọ dừa phá hoại.
43Người ngoại kiều giữa anh (em) sẽ đi lên, lên mãi, vượt hẳn anh (em); còn anh (em) sẽ đi xuống, xuống mãi. 44Họ sẽ cho anh (em) vay mượn, còn anh (em) sẽ không có gì cho họ vay mượn. Họ sẽ đứng đầu, còn anh (em) sẽ đứng cuối.
45Những lời nguyền rủa này sẽ đến với anh (em), theo sát và bao trùm anh (em), cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt, vì anh (em) không nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), không giữ các mệnh lệnh và thánh chỉ của Người mà Người truyền cho anh (em). 46Những điều ấy sẽ nên dấu lạ điềm thiêng cho anh (em) và dòng dõi anh (em) đến muôn đời.Viễn tượng chiến tranh và tù đày
47Vì anh (em) đã không phụng thờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), với tâm hồn vui sướng bởi có đầy đủ tất cả, 48nên trong cảnh đói khát, trần truồng và thiếu thốn tất cả, anh (em) sẽ phải phục vụ quân thù của anh (em), những kẻ ĐỨC CHÚA sẽ sai đến đánh anh (em). Người sẽ đặt ách sắt trên cổ anh (em), cho đến khi chúng tiêu diệt anh (em).
49Để chống lại anh (em), ĐỨC CHÚA sẽ đưa một dân tộc từ xa, từ cùng cõi đất, phóng đến như đại bàng, một dân tộc mà anh (em) không biết tiếng, 50mặt mày cứng cỏi, già không nể, trẻ không thương. 51Nó sẽ ăn đàn con của gia súc anh (em), hoa màu của đất đai anh (em), cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt; nó sẽ không để lại cho anh (em) lúa mì, rượu mới, dầu tươi, bò con, chiên con, cho đến khi nó làm cho anh (em) biến mất. 52Nó sẽ vây hãm anh (em) trong mọi thành của anh (em), cho đến khi các tường thành cao và kiên cố mà anh (em) tin tưởng, phải sụp đổ, trong khắp đất của anh (em); nó sẽ vây hãm anh (em) trong mọi thành của anh (em), trong khắp đất của anh (em) mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 53Khi bị vây hãm, bị quân thù siết chặt trong cảnh ngặt nghèo, anh (em) sẽ ăn con cái của lòng dạ anh (em), ăn thịt con trai con gái anh (em) mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 54Người đàn ông hào hoa phong nhã nhất trong anh (em) sẽ nhìn người anh em mình, người vợ mình đã từng âu yếm, và những đứa con còn giữ lại được, với cặp mắt dữ dằn, 55vì không muốn chia cho ai trong những người này chút thịt những đứa con mà người ấy đang ăn, bởi lẽ người ấy không còn gì nữa, khi anh (em) bị vây hãm, bị kẻ thù siết chặt trong cảnh ngặt nghèo, trong mọi thành của anh (em). 56Người đàn bà liễu yếu đào tơ vào bậc nhất trong anh (em), mềm yếu và nhã nhặn đến đỗi chưa hề thử đặt bàn chân xuống đất, sẽ nhìn người chồng mình đã từng âu yếm và con trai con gái mình với cặp mắt dữ dằn; 57ngay cả cái nhau từ trong lòng mình xổ ra và đứa con mình sinh ra, nàng sẽ lén ăn cả hai, bởi lẽ nàng thiếu tất cả, khi anh (em) bị vây hãm và bị kẻ thù siết chặt trong cảnh ngặt nghèo, trong các thành của anh (em).
58Nếu anh (em) không lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật này, chép trong sách này, và kính sợ danh hiển hách và khả uý này: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), 59thì ĐỨC CHÚA sẽ làm cho anh (em) và làm cho dòng dõi anh (em) phải mang những vết thương lạ, những vết thương nặng và dai dẳng, những bệnh ác độc và dai dẳng. 60ĐỨC CHÚA sẽ cho trở lại với anh (em) mọi dịch tễ của Ai-cập, mà anh (em) kinh hãi, những dịch tễ ấy sẽ bám vào anh (em). 61Cả mọi bệnh hoạn và mọi vết thương không được chép trong sách Luật này, ĐỨC CHÚA cũng giáng xuống trên anh (em), cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt. 62Sau khi đã trở nên nhiều như sao trên trời, anh (em) sẽ chỉ còn lại một số người ít ỏi, vì anh (em) không nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em).
63Cũng như ĐỨC CHÚA đã lấy làm vui khi cho anh em được hạnh phúc và nên đông đúc, thì Người cũng sẽ lấy làm vui khi để cho anh em bị giết chết, bị tiêu diệt, và bị bứng khỏi miền đất mà anh (em) sẽ vào chiếm hữu. 64ĐỨC CHÚA sẽ phân tán anh (em) vào giữa mọi dân, từ đầu đến cuối mặt đất, tại đó, anh (em) sẽ phụng thờ các thần khác, là gỗ, là đá, những thần mà anh (em) và cha ông anh (em) không biết. 65Ở giữa các dân tộc ấy, anh (em) sẽ không được yên hàn và không có chỗ đặt bàn chân; tại đó, ĐỨC CHÚA sẽ làm cho lòng anh (em) xao xuyến, đôi mắt mỏi mòn, tâm hồn kiệt quệ. 66Mạng sống anh (em) sẽ treo lơ lửng trước mặt anh (em); đêm ngày anh (em) sẽ khiếp sợ, anh (em) sẽ không tin mình còn được sống. 67Ban sáng anh (em) sẽ nói: "Bao giờ mới đến chiều? "; ban chiều anh (em) sẽ nói: "Bao giờ mới đến sáng? ", vì nỗi khiếp sợ tràn ngập tâm hồn anh (em) và vì cảnh tượng mắt anh (em) chứng kiến. 68ĐỨC CHÚA sẽ bắt anh (em) đi thuyền, đi bộ trở lại đất Ai-cập mà tôi đã nói với anh (em): "Anh (em) sẽ không còn thấy lại đất này nữa! " Tại đó, anh (em) sẽ bán mình làm tôi trai tớ gái cho quân thù của anh (em), mà chẳng có ai mua! "DIỄN TỪ THỨ BA CỦA ÔNG MÔ-SÊ
69Đây là những lời của giao ước mà ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê lập với con cái Ít-ra-en tại đất Mô-áp, không kể giao ước Người đã lập với họ tại núi Khô-rếp.
Ôn lại lịch sử
1Ông Mô-sê triệu tập toàn thể Ít-ra-en và nói với họ:2đó là các thử thách lớn lao mắt anh (em) từng thấy, là các dấu lạ điềm thiêng lớn lao ấy. 3Nhưng cho đến ngày hôm nay, ĐỨC CHÚA đã không cho anh em lòng để biết, mắt để thấy, tai để nghe.
4Ta đã dẫn các ngươi bốn mươi năm trong sa mạc, mà áo các ngươi mặc đã không rách, dép chân các ngươi đi đã không mòn. 5Của ăn của các ngươi không phải là bánh, thức uống của các ngươi không phải là rượu và đồ uống có men, để các ngươi biết rằng Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi. 6Rồi anh em đã đến nơi này; Xi-khôn, vua Khét-bôn, và Ốc, vua miền Ba-san, đã ra nghênh chiến với chúng ta, và chúng ta đã đánh bại chúng. 7Chúng ta đã chiếm đất của chúng, và chia cho chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát và một nửa chi tộc Mơ-na-se làm gia nghiệp.
8Anh em phải giữ những lời của giao ước này và đem ra thực hành để được thành công trong tất cả những gì anh em làm.Giao ước tại Mô-áp
9Hôm nay, tất cả anh em đứng trước tôn nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em: nào là những người đứng đầu các chi tộc của anh em, nào là các kỳ mục, ký lục của anh em, mọi người phái nam trong Ít-ra-en, 10nào là đàn bà con trẻ của anh em, nào là người ngoại kiều ở trong trại của anh (em), từ người chặt củi cho đến người múc nước cho anh (em). 11Anh (em) sắp gia nhập giao ước của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), giao ước có kèm theo lời thề nguyền, là giao ước mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), lập với anh (em) hôm nay, 12để đặt anh (em) lên làm dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa của anh (em), như Người đã phán với anh (em) và như Người đã thề với cha ông anh (em), là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. 13Không phải chỉ riêng với anh em mà tôi lập giao ước này, có kèm theo lời thề nguyền này, 14nhưng còn với kẻ có mặt ở đây với chúng ta, và hôm nay đang đứng trước tôn nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, cũng như với kẻ không có ở đây với chúng ta hôm nay.
15Chính anh em biết chúng ta đã sống bên đất Ai-cập làm sao và đã băng qua lãnh thổ các dân tộc mà anh em đã đi qua như thế nào. 16Anh em đã thấy ở giữa chúng các đồ gớm ghiếc và các ngẫu tượng của chúng, là gỗ, đá, bạc, vàng.
17Giữa anh em, đừng có người nào, nam hay nữ, đừng có dòng họ hay chi tộc nào hôm nay trở lòng với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, mà đi phụng thờ các thần của những dân tộc ấy. Giữa anh em, đừng có thứ rễ sinh trái độc và quả đắng. 18Nếu kẻ nào, khi nghe các lời thề nguyền này, lại tự chúc phúc cho mình trong lòng mà nói: "Tôi sẽ được bình an, cho dù tôi cứ sống theo lòng chai dạ đá của tôi"; như thể đất được tưới không khác gì đất khô cằn; 19nếu kẻ nào làm thế thì ĐỨC CHÚA sẽ không muốn tha cho nó; bấy giờ cơn giận và lòng ghen tương của ĐỨC CHÚA sẽ bốc lên phạt người ấy, tất cả lời thề nguyền chép trong sách này sẽ đổ xuống trên nó, và ĐỨC CHÚA sẽ xoá tên nó không còn dấu vết trong thiên hạ. 20ĐỨC CHÚA sẽ tách nó ra khỏi mọi chi tộc Ít-ra-en, cho nó phải mang hoạ, chiếu theo mọi lời thề nguyền của giao ước chép trong sách Luật này.
Viễn tượng lưu đày
21Khi thấy các vết thương của miền đất này và những bệnh tật ĐỨC CHÚA giáng xuống trên đó, thì thế hệ tương lai, tức là con cái anh em đứng lên sau anh em, và người nước ngoài đến từ một miền đất xa xôi, sẽ nói: 22"Cả miền đất chỉ là diêm sinh, muối và lửa, không ai gieo vãi, không chi nảy chồi, không cọng cỏ nào mọc lên, giống như cảnh tàn phá ở Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma và Xơ-vô-gim, những thành mà ĐỨC CHÚA đã phá đổ trong cơn thịnh nộ và lôi đình của Người. 23Và mọi dân tộc sẽ nói: "Vì sao ĐỨC CHÚA đã xử như thế với miền đất này? Vì sao cơn thịnh nộ lớn lao này đã bừng cháy? 24Người ta sẽ trả lời: "Ấy là vì họ bỏ giao ước của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông họ, giao ước Người đã lập với họ, khi Người đưa họ ra khỏi đất Ai-cập. 25Họ đã đi phụng thờ các thần khác và sụp xuống lạy các thần ấy, những thần mà họ không biết và Người đã chẳng phân chia cho họ. 26ĐỨC CHÚA đã nổi cơn thịnh nộ với miền đất này, và giáng xuống tất cả lời nguyền rủa chép trong sách này. 27Trong cơn thịnh nộ, lôi đình và giận dữ lớn lao, ĐỨC CHÚA đã bứng họ đi khỏi đất đai của họ và ném họ vào một miền đất khác, như ngày hôm nay. 28Có những điều ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, giữ kín cho mình; nhưng những điều này được mặc khải cho chúng ta và con cháu chúng ta đến muôn đời, để chúng ta đem ra thực hành những lời của Luật này.Trở về từ chốn lưu đày. Trở lại với Chúa.
1Vậy khi tất cả những điều ấy xảy đến cho anh (em), tức là lời chúc phúc và lời nguyền rủa tôi đã đưa ra cho anh (em) chọn, anh (em) sẽ để tâm suy niệm những điều ấy, giữa các dân tộc, nơi mà ĐỨC CHÚA đã đuổi anh (em) đến; 2anh (em) sẽ trở về cùng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), anh (em) và con cái anh (em) sẽ nghe tiếng Người, hết lòng hết dạ, theo mọi điều tôi truyền cho anh (em) hôm nay. 3ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ đổi vận mạng anh (em), sẽ chạnh lòng thương và sẽ lại tập trung anh (em) về từ mọi dân, từ nơi mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã phân tán anh (em). 4Dù anh (em) có bị đuổi xa đến tận chân trời, thì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), cũng sẽ tập trung anh (em) từ đó về, và từ đó Người sẽ đón anh (em). 5ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ đưa anh (em) về đất mà cha ông anh (em) đã chiếm hữu, để anh (em) chiếm hữu đất ấy; Người sẽ làm cho anh (em) được hạnh phúc và đông đúc hơn cha ông anh (em).6ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cắt bì tâm hồn anh (em) và tâm hồn dòng dõi anh (em), để anh (em) yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, ngõ hầu anh (em) được sống. 7ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ giáng mọi lời nguyền rủa này trên quân thù anh (em), những kẻ ghét và bắt bớ anh (em). 8Phần anh (em), anh (em) sẽ trở lại và nghe tiếng ĐỨC CHÚA, sẽ đem ra thực hành mọi mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay. 9ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho anh (em) thành công trong mọi công việc tay anh (em) làm, cho anh (em) sinh nhiều con cái, gia súc anh (em) sinh sôi nảy nở, đất đai anh (em) sinh nhiều hoa trái, để anh (em) được hạnh phúc. Thật vậy, ĐỨC CHÚA sẽ lấy làm vui vì hạnh phúc của anh (em), cũng như Người đã lấy làm vui vì hạnh phúc của cha ông anh (em), 10miễn là anh (em) nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh (em) trở về với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ.
11Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh (em) hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh (em). 12Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh (em) phải nói: "Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành? 13Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển, khiến anh (em) phải nói: "Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành? 14Thật vậy, lời đó ở rất gần anh (em), ngay trong miệng, trong lòng anh (em), để anh (em) đem ra thực hành.
Hai con đường
15Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh (em) chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai hoạ. 16Hôm nay tôi truyền cho anh (em) phải yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đi theo đường lối của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh (em) được sống, được thêm đông đúc, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc cho anh (em) trong miền đất anh (em) sắp vào chiếm hữu. 17Nhưng nếu anh (em) trở lòng và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và sụp xuống lạy các thần khác và phụng thờ chúng, 18thì hôm nay tôi báo cho anh (em) biết: chắc chắn anh (em) sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên đất mà anh (em) sắp sang qua sông Gio-đan để vào chiếm hữu. 19Hôm nay, tôi lấy trời đất làm chứng cáo tội anh (em): tôi đã đưa ra cho anh (em) chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa. Anh (em) hãy chọn sống để anh (em) và dòng dõi anh (em) được sống, 20nghĩa là hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), nghe tiếng Người và gắn bó với Người, vì như thế anh (em) sẽ được sống, sống lâu mà ở lại trên đất ĐỨC CHÚA đã thề với cha ông anh (em), là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho các ngài."IV. NHỮNG VIỆC LÀM CUỐI CÙNG CỦA ÔNG MÔ-SÊ. ÔNG MÔ-SÊ QUA ĐỜI.
Sứ mạng của ông Giô-suê
1Ông Mô-sê đến nói những lời này với toàn thể Ít-ra-en. 2Ông bảo họ: "Hôm nay tôi đã được một trăm hai mươi tuổi, tôi không thể đi ra đi vào được nữa, và ĐỨC CHÚA đã bảo tôi: "Ngươi sẽ không được sang qua sông Gio-đan kia. 3Chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ dẫn đầu anh (em) sang qua sông, Người sẽ tiêu diệt các dân tộc ấy cho khuất mắt anh (em), để anh (em) chiếm đất của chúng. Chính ông Giô-suê sẽ dẫn đầu anh (em) sang qua sông, như ĐỨC CHÚA đã phán. 4ĐỨC CHÚA sẽ xử với chúng như đã xử với các vua người E-mô-ri là Xi-khôn và Ốc, và với đất nước của chúng: Người đã tiêu diệt chúng. 5ĐỨC CHÚA sẽ trao các dân tộc ấy cho anh (em), và anh (em) sẽ xử với chúng theo như tất cả mệnh lệnh tôi đã truyền cho anh (em). 6Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đừng sợ, đừng run khiếp trước mặt chúng, vì chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đi với anh (em); Người sẽ không để mặc, không bỏ rơi anh (em)."7Rồi ông Mô-sê gọi ông Giô-suê lại, và nói với ông trước mặt toàn thể Ít-ra-en: "Mạnh bạo lên, can đảm lên! Chính anh sẽ cùng với dân này vào đất ĐỨC CHÚA đã thề với cha ông họ rằng Người sẽ ban cho họ; chính anh sẽ cho họ hưởng đất ấy làm gia nghiệp. 8Chính ĐỨC CHÚA đi phía trước anh, chính Người sẽ ở với anh; Người sẽ không để mặc, không bỏ rơi anh. Đừng sợ, đừng hãi! "
Nghi thức công bố luật
9Ông Mô-sê viết luật này và trao cho các tư tế, con cái Lê-vi, là những người sẽ kiệu Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA, và cho tất cả các kỳ mục Ít-ra-en. 10Ông Mô-sê truyền cho họ rằng: "Sau bảy năm, vào thời kỳ có năm tha nợ, trong dịp lễ Lều, 11khi toàn thể Ít-ra-en đến để ra trình diện ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Người chọn, anh (em) phải đọc luật này trước toàn thể Ít-ra-en, cho họ nghe. 12Anh (em) hãy tập hợp dân, đàn ông, đàn bà, trẻ con và người ngoại kiều ở trong các thành của anh (em), để họ nghe và để họ học cho biết kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), và lo đem ra thực hành mọi lời của luật này. 13Con cái họ, là những kẻ không biết, sẽ nghe và học cho biết kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, mọi ngày anh em sống trên đất mà anh em sắp qua sông Gio-đan để chiếm hữu."Huấn thị của ĐỨC CHÚA
14ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Đây sắp đến ngày ngươi phải lìa đời. Hãy gọi Giô-suê đến, và các người hãy đứng ở Lều Hội Ngộ để Ta truyền lệnh cho nó." Ông Mô-sê và ông Giô-suê ra đứng ở Lều Hội Ngộ. 15ĐỨC CHÚA xuất hiện trong Lều, trong cột mây và cột mây đứng ở cửa Lều.16ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Đây ngươi sắp nằm xuống với cha ông ngươi, và dân này sẽ chạy theo các thần mà làm điếm, các thần của người ngoại bang ở trong đất nó sắp vào; nó sẽ bỏ Ta và sẽ phá vỡ giao ước của Ta, giao ước Ta đã lập với nó. 17Ngày ấy, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với nó. Ta sẽ bỏ chúng và sẽ ẩn mặt đi không nhìn chúng. Bấy giờ nó sẽ bị thôn tính, và nhiều tai hoạ, nhiều cơn ngặt nghèo sẽ xảy ra cho nó. Ngày đó, nó sẽ nói: "Những tai hoạ này xảy ra cho tôi, phải chăng là vì Thiên Chúa không còn ở giữa tôi? 18Phần Ta, ngày đó Ta sẽ cứ ẩn mặt đi, vì tất cả điều ác nó làm khi hướng về các thần khác.
Bài ca làm chứng
19Bây giờ các ngươi hãy viết cho mình bài ca này, (các) ngươi hãy dạy cho con cái Ít-ra-en, hãy đặt vào miệng chúng, để Ta lấy bài ca ấy làm chứng cáo tội con cái Ít-ra-en. 20Thật vậy, Ta sẽ đưa nó vào đất Ta đã thề hứa với cha ông nó, đất tràn trề sữa và mật, nó sẽ được ăn, được no nê, sẽ béo mập, rồi sẽ hướng về các thần khác và phụng thờ chúng, nó sẽ khinh thị Ta và phá vỡ giao ước của Ta. 21Khi nhiều tai hoạ, nhiều cơn ngặt nghèo xảy ra cho chúng, thì bài ca này sẽ làm chứng cáo tội nó, vì dòng dõi chúng sẽ không quên lặp lại bài ca này. Thật vậy, Ta biết ý định nó đang mưu tính hôm nay, ngay cả trước khi Ta đưa nó vào đất mà Ta đã thề hứa." 22Hôm ấy, ông Mô-sê đã viết bài ca này và dạy con cái Ít-ra-en.23ĐỨC CHÚA truyền lệnh cho ông Giô-suê, con ông Nun, Người phán: "Mạnh bạo lên, can đảm lên! Chính ngươi sẽ đưa con cái Ít-ra-en vào đất mà Ta đã thề hứa với chúng; và Ta sẽ ở với ngươi."
Đặt Luật bên Hòm Bia
24Khi ông Mô-sê đã viết xong các lời của luật này vào một cuốn sách, từ đầu chí cuối, 25thì ông truyền cho các thầy Lê-vi, những người kiệu Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA, rằng: 26"Hãy đem sách luật này đặt bên Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em; ở đó sách ấy sẽ làm chứng cáo tội anh (em). 27Vì tôi biết anh (em) hay phản nghịch và cứng cổ: hôm nay tôi còn sống với anh em, mà anh em đã phản nghịch chống lại ĐỨC CHÚA, huống chi là sau khi tôi chết!Tập hợp dân để nghe bài ca
28Hãy tập hợp lại chung quanh tôi hết mọi kỳ mục của các chi tộc anh em và các ký lục của anh em; tôi sẽ nói cho họ nghe những lời này, và lấy trời đất làm chứng cáo tội họ. 29Vì tôi biết rằng, sau khi tôi chết, chắc chắn anh em sẽ ra hư hỏng, và sẽ đi ra ngoài con đường tôi đã truyền cho anh em; và tai hoạ sẽ xảy đến cho anh em sau này, vì anh em sẽ làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, để trêu giận Người bằng những việc tay anh em làm."30Rồi ông Mô-sê nói cho toàn thể đại hội Ít-ra-en nghe những lời của bài ca này, từ đầu chí cuối:
BÀI CA CỦA ÔNG MÔ-SÊ
1Trời hãy lắng tai, này tôi sắp kể,đất nghe cho tường lời lẽ miệng tôi:2Giáo huấn của tôi như giọt mưa thánh thót,lời tôi dạy bảo tựa sương móc nhỏ sa,khác nào mưa rơi trên nội cỏ,giống như nước đổ xuống đồng xanh.
3Này tôi xưng tụng thánh danh ĐỨC CHÚA,trời đất hãy suy tôn Thiên Chúa ta thờ!
4Người là Núi Đá: sự nghiệp Người hoàn hảo,vì mọi đường lối Người đều thẳng ngay.Chúa tín thành, không mảy may gian dối,Người quả là chính trực công minh.
5Những đứa con mà Chúa đã sinh ra không tì ốlại lỗi đạo với Người, ôi nòi giống lưu manh tà vạy!
6Hỡi dân tộc ngu si khờ dại,ngươi đáp đền ơn ĐỨC CHÚA vậy sao?Há chính Người chẳng phải cha ngươi,Đấng dựng nên ngươi, Đấng tạo thành, củng cố?
7Hãy nhớ lại những ngày xưa tháng cũ,và ngẫm xem từng thế hệ qua rồi.Cứ hỏi cha ngươi là người sẽ dạy,thỉnh bậc lão thành, họ sẽ nói cho nghe.
8Khi Đấng Tối Cao định phần riêng cho muôn nước,và khiến loài người khắp ngả chia tay,thì Người vạch biên cương cho từng dân tộctheo số các thần minh.
9Nhưng sở hữu của ĐỨC CHÚA chính là dân Chúa,nhà Gia-cóp là cơ nghiệp của Người.
10Gặp thấy nó giữa miền hoang địa,giữa cảnh hỗn mang đầy tiếng hú rợn rùng,Chúa ấp ủ, Chúa lo dưỡng dục,luôn giữ gìn, chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa.
11Tựa chim bằng trên tổ lượn quanh, giục bầy con bay nhảy,xoè cánh ra đỡ lấy rồi cõng con trên mình.
12Duy một mình ĐỨC CHÚA lãnh đạo dân;chẳng có thần ngoại bang nào bên cạnh Chúa.
13Người cho nó phóng ngựa trên các vùng đất cao trong xứ,nó được ăn hoa màu đồng ruộng;Người cho nó nếm mật ong chảy ra từ hốc đá,nếm dầu từ tảng đá hoa cương;
14nếm sữa bò chua và sữa chiên dê,với mỡ chiên con, chiên đực miền Ba-san,mỡ dê đực, với lúa mì tinh hảo;ngươi uống máu trái nho đã hoá rượu nồng.
15Giơ-su-run mập ra, nó hất chân đá hậu-ngươi mập, béo, phát phì-nó đã bỏ Thiên Chúa, Đấng đã làm ra nó,Núi Đá độ trì nó, nó đã khinh thường.
16Chúng thờ các thần xa lạ khiến Người phải ghen tương,làm những điều ghê tởm mà trêu giận Người;
17chúng tế những quỷ không phải là Thiên Chúa,tế những thần chúng không biết,những thần mới, vừa mới đến,mà cha ông các ngươi đã không khiếp sợ.
18Núi Đá sinh ra ngươi, ngươi lại coi thường,ngươi quên Thiên Chúa, Đấng đã sinh ra ngươi.
19ĐỨC CHÚA thấy vậy thì khinh miệt,vì con trai con gái Người đã trêu giận Người.
20Người phán: "Ta sẽ ẩn mặt đi không nhìn chúng,để xem hậu vận chúng ra sao;vì chúng là giống nòi tráo trở,những đứa con chẳng chút tín trung.
21Chúng đã thờ các thần không phải là Thiên Chúakhiến Ta phải ghen tương,thờ những thần hư ảo mà trêu giận Ta;Ta sẽ dùng một dân không phải là dânkhiến chúng phải ghen tương,dùng một dân tộc ngu si mà trêu giận chúng.
22Phải, lửa thịnh nộ đã bùng lên trong Ta,nó đốt đến tận đáy sâu âm phủ,thiêu huỷ đất đai với cả hoa màu,làm chân núi đồi bốc cháy.
23Trên chúng, Ta sẽ chồng chất tai ương,sẽ phóng hết mũi tên của Ta vào chúng.
24Khi vì đói, chúng phải hao mòn,vì sốt, vì ôn dịch tàn khốc mà phải tiêu tan,Ta sẽ gửi đến chúng nanh thú dữ,với nọc của loài bò sát trên bụi đất.
25Ngoài thì lưỡi gươm sẽ làm chúng mất con,trong thì là nỗi kinh hoàng.Cả trai tráng lẫn người trinh nữ,trẻ đang bú cũng như người bạc đầu sẽ chung số phận.
26Ta đã phán: Ta sẽ đập chúng tan tành,làm cho loài người chẳng còn ai nhớ tới,
27nếu như Ta không sợ kẻ thù xúc phạm.Đối thủ chúng chớ có hiểu lầmmà nói rằng: "Chúng ta cao tay hơn,tất cả điều đó, đâu phải là ĐỨC CHÚA đã làm.
28Quả thế, chúng là một dân tộc phán đoán sai lạc,thiếu hẳn trí thông minh.
29Nếu là người khôn ngoan, chúng sẽ hiểu điều đó,sẽ thông suốt hậu vận của mình.
30Làm sao một người đuổi được một ngàn người,và hai người khiến mười ngàn người trốn chạy,nếu không phải vì Núi Đá của chúng đã bán chúng đi,và ĐỨC CHÚA đã nộp chúng rồi?
31Vì núi đá của chúng không phải như Núi Đá của chúng ta.Chính kẻ thù chúng ta đều công nhận.
32Nho của chúng lấy giống từ nho của Xơ-đôm,từ những cánh đồng của Gô-mô-ra;trái nho của chúng là trái nho độc,chùm nho của chúng mới đắng làm sao!
33Rượu của chúng là nọc mãng xà,là chất độc giết người của rắn hổ mang.
34Điều này chẳng được giữ kỹ bên Ta,được niêm phong trong các kho tàng của Ta sao?
35Chính Ta sẽ báo oán và đáp trả,vào lúc mà chân chúng lảo đảo té xiêu,vì ngày chúng lâm nạn đã gần,và vận hạn chúng đang sầm sập tới."
36Thật vậy, ĐỨC CHÚA sẽ xét xử cho thần dân,sẽ dủ lòng thương hàng tôi tớ,khi Người thấy rằng bàn tay chúng yếu đi,và người nô lệ, kẻ tự do cũng chẳng còn.
37Bấy giờ Người phán: "Đâu rồi các thần của chúng,đâu rồi núi đá chúng ẩn thân?
38Đâu rồi những kẻ ăn mỡ lễ tế của chúng,uống rượu tế chúng dâng?Các thần đó hãy đứng lên và phù trợ các ngươi,cho các ngươi có một nơi ẩn náu!
39Bây giờ hãy coi đây: Ta chính là Ta,bên cạnh Ta, chẳng có thần nào khác,Ta cầm quyền sinh tử, Ta đánh phạt, rồi Ta lại chữa lành,không ai cứu khỏi tay Ta được.
40Phải, Ta giơ tay lên trời, Ta nói: Ta sống đến muôn đời!
41Khi Ta mài lưỡi gươm sáng loé của Ta, khi Ta ra tay xét xử,thì Ta sẽ báo oán các đối thủ của Ta, sẽ đáp trả những kẻ ghét Ta,
42Ta sẽ làm cho các mũi tên của Ta say máu,gươm của Ta sẽ ăn thịt:máu những người bị giết và những tù nhân,thịt đầu các thủ lãnh quân thù."
43Hỡi các dân tộc, hãy reo hò mừng dân Chúa,vì Người bắt đền nợ máu các tôi tớ của Người,báo oán các đối thủ của Người,và xá tội cho đất, cho dân của Người.
44Ông Mô-sê cùng đến với ông Hô-sê-a, con ông Nun, và nói cho dân nghe tất cả những lời của bài ca này.
Luật là nguồn sống
45Khi ông Mô-sê đã nói xong tất cả những lời ấy với toàn thể Ít-ra-en, 46thì ông bảo họ: "Hãy để tâm vào tất cả những lời mà hôm nay tôi cảnh cáo anh em, hãy truyền những lời đó cho con cái anh em, để chúng lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật này. 47Thật vậy, đó không phải là một lời trống rỗng đối với anh em, mà đó là sự sống của anh em, và nhờ lời ấy, anh em sẽ được sống trên đất mà anh em sắp qua sông Gio-đan để chiếm hữu."Báo trước cái chết của ông Mô-sê
48Chính ngày đó, ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 49"Ngươi hãy lên ngọn núi kia của dãy A-va-rim, lên ngọn núi Nơ-vô, ở đất Mô-áp, đối diện với Giê-ri-khô, và hãy nhìn xem đất Ca-na-an mà ta ban cho con cái Ít-ra-en làm sở hữu. 50Rồi ngươi hãy chết trên ngọn núi ngươi sắp lên, và hãy về sum họp với gia tộc ngươi, cũng như A-ha-ron, anh ngươi, đã chết tại núi Ho và đã về sum họp với gia tộc. 51Bởi vì giữa con cái Ít-ra-en, các ngươi đã không trung thành với Ta tại mạch nước Mơ-ri-va ở Ca-đê, trong sa mạc Xin, và bởi vì các ngươi đã không biểu lộ sự thánh thiện của Ta giữa con cái Ít-ra-en, 52nên ngươi chỉ được thấy đất ấy từ xa, chứ không được vào đó, vào đất Ta ban cho con cái Ít-ra-en."Những lời chúc phúc của ông Mô-sê
1Đây là lời chúc phúc mà ông Mô-sê, người của Thiên Chúa, đã chúc phúc cho con cái Ít-ra-en trước khi qua đời. 2Ông nói:"ĐỨC CHÚA từ Xi-nai ngự đến, từ Xê-ia, Người chiếu soi trên họ,Người giãi sáng từ núi Pa-ran, Người đã đến Mơ-ri-va ở Ca-đê,vì họ, từ phía nam Người đến Sườn Núi.3Hẳn Chúa yêu thương các dân, toàn dân thánh ở trong tay Chúa,và họ phục dưới chân Ngài, mỗi người nhận lấy lời Ngài phán.
4Ông Mô-sê đã truyền cho chúng ta một Luật,là sở hữu của cộng đồng Gia-cóp.
5Ở Giơ-su-run đã có một vua,khi các người đứng đầu dân tụ họp, cùng với các chi tộc Ít-ra-en.
6Ước gì Rưu-vên sống và không chết,và số người ít ỏi của nó tồn tại.
7Về Giu-đa, đây là điều ông nói:Lạy ĐỨC CHÚA, xin nghe tiếng của Giu-đa,xin đưa nó trở về với dân nó,và để nó tự tay bảo vệ chính mình,xin Ngài phù trợ nó chống lại đối phương.
8Về Lê-vi, ông nói:Thẻ xăm tum-mim và u-rim của Ngàithuộc về kẻ hiếu trung với Ngài,mà Ngài đã thử thách tại Ma-xavà đã cùng tranh tụng bên dòng nước Mơ-ri-va;
9nó là người đã nói về cha mẹ nó: "Tôi không nhìn thấy họ",anh em nó, nó không nhìn nhận, con cái nó, nó không biết.Chi tộc Lê-vi đã tuân thủ lời Ngài và đã giữ giao ước của Ngài.
10Họ dạy những quyết định của Ngài cho nhà Gia-cóp,luật của Ngài cho Ít-ra-en.Họ dâng hương thơm để Ngài thưởng thức,và lễ toàn thiêu trên bàn thờ Ngài.
11Lạy ĐỨC CHÚA, xin chúc phúc cho lòng dũng cảm của nó,xin Ngài khứng nhận việc tay nó làm;xin đập gãy lưng thù địch nó,và ước gì những kẻ ghét nó không còn chỗi dậy được! "
12Về Ben-gia-min, ông nói:Là kẻ được ĐỨC CHÚA yêu thương, nó sống yên hàn ở bên Người,Đấng suốt ngày che chở nó và ngự giữa núi đồi của nó.
13Về Giu-se, ông nói:Đất của nó được phúc lành của ĐỨC CHÚA:ơn lộc từ trời, là sương móc nhỏ sa,và từ vực sâu nằm ở phía dưới;
14ơn lộc là những gì trổ sinh dưới ánh mặt trời,là những gì mọc lên mỗi tuần trăng;
15là sản phẩm hàng đầu của núi non thái cổ,của gò nổng thiên thu;
16là đất đai và thổ sản của nó,hồng ân của Đấng ngự giữa bụi gai.Ước chi những phúc lành ấy xuống trên đầu Giu-se,trên đỉnh đầu người được thánh hiến giữa anh em mình!
17Nó là con bò mộng đầu lòng của Chúa, chúc nó được vinh hiển!Sừng nó là sừng trâu, nó dùng để quật ngã các dân,một trật trên khắp cùng cõi đất.Đó là vạn vạn người Ép-ra-im, đó là ngàn ngàn quân Mơ-na-se.
18Về Dơ-vu-lun, ông nói:Hãy vui mừng, hỡi Dơ-vu-lun, trong các chuyến đi của ngươi,và hỡi Ít-xa-kha, trong lều trại của mình.
19Họ gọi các dân lên núi, ở đó họ dâng những lễ tế luật truyền;họ hút về tài nguyên của biển và các kho tàng ẩn giấu dưới cát.
20Về Gát, ông nói: Chúc tụng Đấng cho Gát được thênh thang!Như sư tử cái, nó phục sẵn, nó xé mồi, cả vai lẫn đầu.
21Nó coi sản phẩm đầu mùa là của nó,vì trong đó có phần dành cho người lãnh đạo;nó đến với các người đứng đầu dân,nó thực hành sự công chính của ĐỨC CHÚAvà các quyết định của Người về Ít-ra-en.
22Về Đan, ông nói:Đan là sư tử con chồm lên từ miền Ba-san.
23Về Náp-ta-li, ông nói: Náp-ta-li được no đầy hồng ânvà chứa chan phúc lành của ĐỨC CHÚA;nó hãy chiếm phía tây và phía nam.
24Về A-se, ông nói:Ước gì nó được chúc phúc hơn các người con khác!Ước gì nó được anh em mình ưu ái, và được dầm chân trong dầu!
25Ước gì then cửa của ngươi bằng sắt bằng đồng,và sức mạnh của ngươi bền bỉ như ngày đời ngươi!
26Hỡi Giơ-su-run, chẳng có ai như Thiên Chúa,Người ngự đến giúp ngươi, lẫm liệt uy hùng,xa giá Người là trời cao mây thẳm.
27Thiên Chúa của thời thái cổ là một nơi ẩn náu;dưới đất này, cánh tay Người đã hành động từ xưa;Người xua đuổi kẻ thù cho khuất mắt ngươi,và Người phán: "Hãy tiêu diệt.
28Ít-ra-en sống yên hàn; suối Gia-cóp là dòng suối biệt lập,trong miền đất có lúa mì và rượu mới,ở đó, cả trời cũng nhỏ sương.
29Hỡi Ít-ra-en, ngươi thật có phúc!Ai được như ngươi, hỡi dân được ĐỨC CHÚA cứu?Người là thuẫn đỡ cứu giúp ngươi,là lưỡi gươm đem lại cho ngươi chiến thắng.Các kẻ thù ngươi sẽ nịnh bợ cầu thân,còn ngươi sẽ chà đạp các đỉnh cao của chúng."
Ông Mô-sê qua đời
1Từ đồng bằng Mô-áp, ông Mô-sê lên núi Nơ-vô, tới Pít-ga, đối diện với Giê-ri-khô, và ĐỨC CHÚA cho ông xem thấy tất cả miền đất: miền Ga-la-át cho đến Đan, 2tất cả Náp-ta-li, miền đất Ép-ra-im và Mơ-na-se, tất cả miền đất Giu-đa cho đến Biển Tây, 3miền Ne-ghép, vùng sông Gio-đan, thung lũng Giê-ri-khô là thành Chà Là, cho đến Xô-a. 4ĐỨC CHÚA phán với ông: "Đây là miền đất Ta đã thề hứa với Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, khi nói: "Ta sẽ ban đất ấy cho dòng dõi ngươi. Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không được qua đó."5Ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, qua đời tại đó, trong đất Mô-áp, theo lệnh ĐỨC CHÚA. 6Ông được mai táng trong thung lũng, ở miền đất Mô-áp, đối diện với Bết Pơ-o. Cho đến ngày hôm nay, không ai biết mộ ông ở đâu. 7Khi chết, ông Mô-sê thọ một trăm hai mươi tuổi, mắt không mờ, khí lực không giảm. 8Con cái Ít-ra-en khóc ông Mô-sê trong đồng bằng Mô-áp ba mươi ngày; rồi những ngày than khóc thọ tang ông Mô-sê chấm dứt. 9Ông Giô-suê, con ông Nun, đã được đầy thần khí khôn ngoan, vì ông Mô-sê đã đặt tay trên ông. Con cái Ít-ra-en nghe ông và làm như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.
10Trong Ít-ra-en, không còn xuất hiện một ngôn sứ nào như ông Mô-sê, người mà ĐỨC CHÚA biết rõ, mặt giáp mặt. 11ĐỨC CHÚA đã sai ông thực hiện mọi điềm thiêng dấu lạ tại nước Ai-cập, phạt Pha-ra-ô cùng tất cả bề tôi và cả nước. 12Ông Mô-sê đã biểu dương tất cả sức mạnh bàn tay ông và gây tất cả nỗi kinh hoàng lớn lao trước mắt toàn thể Ít-ra-en.