I. KIỂM TRA DÂN SỐ
1Tại sa mạc Xi-nai ngày mồng một tháng hai năm thứ hai kể từ khi con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê trong Lều Hội Ngộ rằng:2"Các ngươi hãy kiểm tra dân số toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en theo thị tộc và gia tộc, lập danh sách mọi người đàn ông từng người một. 3Những người từ hai mươi tuổi trở lên, nghĩa là mọi người trong dân Ít-ra-en đến tuổi nhập ngũ, thì ngươi và A-ha-ron hãy liệt kê theo đơn vị của chúng. 4Mỗi chi tộc còn phải có một người giúp các ngươi, người ấy phải là tộc trưởng.
Nhân viên kiểm tra
5Đây là danh sách những người đứng ra giúp các ngươi: "Chi tộc Rưu-vên có Ê-li-xua, con Sơ-đê-ua.6Chi tộc Si-mê-ôn có Sơ-lu-mi-ên, con Xu-ri-sát-đai.
7Chi tộc Giu-đa có Nác-sôn, con Am-mi-na-đáp.
8Chi tộc Ít-xa-kha có Nơ-than-ên, con Xu-a.
9Chi tộc Dơ-vu-lun có Ê-li-áp, con Khe-lôn.
10Con cháu Giu-se: chi tộc Ép-ra-im có Ê-li-sa-ma, con Am-mi-hút, và chi tộc Mơ-na-se có Gam-li-ên, con Pơ-đa-xua.
11Chi tộc Ben-gia-min có A-vi-đan, con Ghít-ô-ni.
12Chi tộc Đan có A-khi-e-de, con Am-mi-sát-đai.
13Chi tộc A-se có Pác-i-ên, con Oóc-ran.
14Chi tộc Gát có En-gia-xáp, con Rơ-u-ên.
15Chi tộc Náp-ta-li có A-khi-ra, con Ê-nan."
16Đó là những người đại diện của cộng đồng, họ đều là những người phụ trách các chi tộc của họ, chỉ huy quân ngũ Ít-ra-en.
17Ông Mô-sê và ông A-ha-ron nhận những người vừa được chỉ định đích danh, 18và triệu tập toàn thể cộng đồng vào ngày mồng một tháng hai. Người ta xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, lập danh sách những người đàn ông, từ hai mươi tuổi trở lên, từng người một. 19Như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông, ông Mô-sê kiểm tra họ trong sa mạc Xi-nai.
Cuộc kiểm tra
20Con cháu Rưu-vên, trưởng nam của Ít-ra-en, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 21những người được kiểm tra thuộc chi tộc Rưu-vên, là 46.500.22Con cháu Si-mê-ôn, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 23những người được kiểm tra thuộc chi tộc Si-mê-ôn, là 59.300.
24Con cháu Gát, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 25những người được kiểm tra thuộc chi tộc Gát, là 45.650.
26Con cháu Giu-đa, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 27những người được kiểm tra thuộc chi tộc Giu-đa, là 74.600.
28Con cháu Ít-xa-kha, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 29những người được kiểm tra thuộc chi tộc Ít-xa-kha, là 54.400.
30Con cháu Dơ-vu-lun, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 31những người được kiểm tra thuộc chi tộc Dơ-vu-lun, là 57.400.
32Con cháu Giu-se: thuộc chi tộc Ép-ra-im, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 33những người được kiểm tra thuộc chi tộc Ép-ra-im, là 40.500.
34Còn chi tộc Mơ-na-se, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 35những người được kiểm tra thuộc chi tộc Mơ-na-se, là 32.200.
36Con cháu Ben-gia-min, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 37những người được kiểm tra thuộc chi tộc Ben-gia-min, là 35.400.
38Con cháu Đan, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 39những người được kiểm tra thuộc chi tộc Đan, là 62.700.
40Con cháu A-se, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 41những người được kiểm tra thuộc chi tộc A-se, là 41.500.
42Con cháu Náp-ta-li, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 43những người được kiểm tra thuộc chi tộc Náp-ta-li, là 53.400.
44Đó là những người đã được ông Mô-sê và ông A-ha-ron kiểm tra cùng với mười hai người phụ trách Ít-ra-en, mỗi người phụ trách gia tộc mình. 45Tất cả con cái Ít-ra-en đã được kiểm tra theo gia tộc của họ, từ hai mươi tuổi trở lên, tất cả các chiến binh trong dân Ít-ra-en, 46tổng số người được kiểm tra, là 603.550.
Quy chế các thầy Lê-vi
47Còn các thầy Lê-vi, vì quy chế chi tộc của mình, thì không được liệt kê vào số đó.48ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 49"Riêng chi tộc Lê-vi, ngươi sẽ không kiểm tra và không liệt kê chung với con cái Ít-ra-en. 50Nhưng hãy đặt các thầy Lê-vi phụ trách Nhà Tạm Chứng Ước, cũng như mọi vật dụng và tất cả những gì liên quan tới Nhà Tạm đó. Chính họ sẽ lo việc di chuyển Nhà Tạm và mọi vật dụng, sẽ phục vụ và dựng lều chung quanh Nhà Tạm. 51Khi dời Nhà Tạm, các thầy Lê-vi sẽ hạ Nhà Tạm xuống, và lúc Nhà Tạm dừng lại thì họ sẽ dựng Nhà Tạm lên. Còn ai khác mà tới gần sẽ phải chết. 52Con cái Ít-ra-en sẽ dựng lều, mỗi người nơi doanh trại mình, theo cờ hiệu của từng đoàn quân. 53Còn các thầy Lê-vi thì sẽ dựng lều chung quanh Nhà Tạm Chứng Ước. Như thế thịnh nộ (của Ta) sẽ không giáng xuống cộng đồng con cái Ít-ra-en. Các thầy Lê-vi sẽ phụ trách Nhà Tạm."
54Con cái Ít-ra-en đã thi hành tất cả mọi điều y như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.
Thứ tự các chi tộc
1ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 2"Con cái Ít-ra-en sẽ đóng trại, mỗi người theo cờ hiệu và huy hiệu của gia tộc mình. Chúng sẽ đóng trại ở vòng ngoài, hướng về Lều Hội Ngộ.3Đóng ở phía đông, hướng mặt trời mọc, là cờ hiệu doanh trại Giu-đa theo đoàn quân của chúng. Đứng đầu con cháu Giu-đa là Nác-sôn, con Am-mi-na-đáp. 4Đoàn quân của chúng, những người đã được kiểm tra, là 74.600.
5Đóng trại bên cạnh chúng là chi tộc Ít-xa-kha. Đứng đầu con cháu Ít-xa-kha là Nơ-than-ên, con Xu-a. 6Đoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 54.400.
7Tiếp theo là chi tộc Dơ-vu-lun, đứng đầu là Ê-li-áp, con Khe-lôn. 8Đoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 57.400.
9Tổng số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Giu-đa là 186.400. Những người này sẽ đi tuyến đầu.
10Phía nam là cờ hiệu doanh trại Rưu-vên theo đoàn quân của chúng. Đứng đầu là Ê-li-xua, con Sơ-đê-ua. 11Đoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 46.500.
12Đóng trại bên cạnh chúng là chi tộc Si-mê-ôn. Đứng đầu con cháu Si-mê-ôn là Sơ-lu-mi-ên, con Xu-ri-sát-đai. 13Đoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 59.300.
14Kế đến là chi tộc Gát. Đứng đầu con cháu Gát là En-gia-xáp, con Rơ-u-ên. 15Đoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 45.650.
16Tổng số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Rưu-vên là 151.450 theo đoàn quân của chúng. Những người này sẽ đi tuyến hai.
17Tiếp đó Lều Hội Ngộ sẽ lên đường, cùng với doanh trại Lê-vi, đi giữa các doanh trại khác. Đóng trại theo thứ tự nào thì lên đường cũng theo thứ tự ấy, mỗi người cứ giữ vị trí của mình, tuỳ theo cờ hiệu của mình.
18Cờ hiệu doanh trại Ép-ra-im theo đoàn quân của chúng sẽ nằm ở phía tây. Đứng đầu con cháu Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma, con Am-mi-hút. 19Đoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 40.500.
20Bên cạnh chúng là chi tộc Mơ-na-se. Đứng đầu con cháu Mơ-na-se là Gam-li-ên, con Pơ-đa-xua. 21Đoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 32.200.
22Rồi đến chi tộc Ben-gia-min. Đứng đầu con cháu Ben-gia-min là A-vi-đan, con Ghít-ô-ni. 23Đoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 35.400.
24Tổng số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Ép-ra-im, là 108.100, tính theo đoàn quân của chúng. Chúng sẽ đi tuyến ba.
25Cờ hiệu doanh trại Đan theo đoàn quân của chúng sẽ nằm ở phía bắc. Đứng đầu con cháu Đan là A-khi-e-de, con Am-mi-sát-đai. 26Đoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 62.700.
27Đóng trại bên cạnh chúng là chi tộc A-se. Đứng đầu con cháu A-se là Pác-i-ên, con Oóc-ran. 28Đoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 41.500.
29Kế đến là chi tộc Náp-ta-li. Đứng đầu con cháu Náp-ta-li là A-khi-ra, con Ê-nan. 30Đoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 53.400.
31Tổng số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Đan là 157.600. Chúng sẽ đi tuyến cuối cùng, theo cờ hiệu của mình."
32Đó là con cái Ít-ra-en được kiểm tra theo gia tộc của họ. Tổng số những người được kiểm tra, thuộc các doanh trại, theo đoàn quân của họ, là 603.550. 33Riêng các thầy Lê-vi, thì không phải kiểm tra cùng với con cái Ít-ra-en, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.
34Con cái Ít-ra-en đã thi hành tất cả mọi điều y như ĐỨC CHÚA truyền cho ông Mô-sê. Họ đóng trại theo cờ hiệu, và họ lên đường, mỗi người theo thị tộc và gia tộc của mình.
Chi tộc Lê-vi:
1Đây là dòng dõi ông A-ha-ron và ông Mô-sê vào thời ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê trên núi Xi-nai.2Tên các con ông A-ha-ron như sau: trưởng nam là Na-đáp, rồi đến A-vi-hu, E-la-da và I-tha-ma. 3Đó là tên các con ông A-ha-ron, những tư tế đã được xức dầu tấn phong để thi hành chức vụ tư tế. 4Ông Na-đáp và ông A-vi-hu đã chết trước nhan ĐỨC CHÚA, vì đã dâng lửa phàm tục trước Thánh Nhan, khi còn ở sa mạc Xi-nai; các ông không có con. Chỉ còn hai ông E-la-da và I-tha-ma thi hành chức vụ tư tế trước mặt ông A-ha-ron, thân phụ các ông.B. Các thầy Lê-vi. Chức vụ của họ.
5ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 6"Hãy gọi chi tộc Lê-vi lại và đặt chúng túc trực bên cạnh tư tế A-ha-ron để giúp nó. 7Chúng phải đảm nhiệm công việc của nó, cũng như công việc của toàn thể cộng đồng trước Lều Hội Ngộ, để lo phục dịch Nhà Tạm. 8Chúng sẽ trông coi tất cả các vật dụng trong Lều Hội Ngộ, đồng thời đảm nhiệm công việc của con cái Ít-ra-en, để lo phục dịch Nhà Tạm. 9Ngươi hãy trao các thầy Lê-vi cho A-ha-ron và các con nó như những người được dâng hiến, những người được dâng hiến mà con cái Ít-ra-en nộp cho nó. 10Ngươi hãy đặt A-ha-ron và các con nó đảm nhận chức vụ tư tế, còn ai khác mà tới gần sẽ phải chết."C. Tuyển chọn các thầy Lê-vi
11ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 12"Đây, chính Ta đã chọn các thầy Lê-vi giữa con cái Ít-ra-en thay thế tất cả các trưởng nam, các con đầu lòng trong số con cái Ít-ra-en, cho nên các thầy Lê-vi thuộc về Ta. 13Thật vậy, tất cả các con đầu lòng đều thuộc về Ta, từ ngày Ta đánh phạt tất cả các con đầu lòng trong đất Ai-cập; Ta đã thánh hiến cho Ta tất cả các con đầu lòng trong Ít-ra-en, của loài người cũng như của súc vật: chúng thuộc về Ta. Ta là ĐỨC CHÚA."D. Kiểm tra các thầy Lê-vi
14ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê trong sa mạc Xi-nai rằng: 15"Hãy kiểm tra con cái Lê-vi theo gia tộc và thị tộc, tất cả đàn ông con trai tuổi từ một tháng trở lên, hãy ghi số." 16Vậy, ông Mô-sê đã kiểm tra họ theo lệnh ĐỨC CHÚA, như Người đã truyền cho ông. 17Đây là con cái Lê-vi nêu đích danh: Ghéc-sôn, Cơ-hát, Mơ-ra-ri. 18Và đây là tên con cái Ghéc-sôn theo thị tộc: Líp-ni và Sim-y. 19Con cái Cơ-hát theo thị tộc là Am-ram và Gít-ha, Khép-rôn và Út-di-ên. 20Con cái Mơ-ra-ri theo thị tộc là Mác-li và Mu-si. Đó là những thị tộc Lê-vi tính theo gia tộc họ.
21Về phần Ghéc-sôn, có thị tộc Líp-ni và thị tộc Sim-y. Đó là các thị tộc thuộc dòng họ Ghéc-sôn. 22Những người được kiểm tra, tính tất cả con trai của họ, tuổi từ một tháng trở lên, là 7.500. 23Các thị tộc thuộc dòng họ Ghéc-sôn đóng trại đàng sau Nhà Tạm, ở phía tây. 24Đứng đầu dòng họ Ghéc-sôn là En-gia-xáp, con La-ên. 25Công việc của con cháu Ghéc-sôn ở cửa Lều Hội Ngộ là trông coi Nhà Tạm và Lều, cũng như bạt che và bức màn ở lối vào Lều Hội Ngộ, 26cùng các tấm rèm che khuôn viên, bức màn ở lối vào khuôn viên bao quanh Nhà Tạm và bàn thờ, cũng như các dây thừng dùng vào việc phục dịch.
27Về phần Cơ-hát, có thị tộc Am-ram, thị tộc Gít-ha, thị tộc Khép-rôn và thị tộc Út-di-ên. Đó là các thị tộc thuộc dòng họ Cơ-hát. 28Tổng cộng tất cả con trai tuổi từ một tháng trở lên, là 8.300. Họ trông coi thánh điện. 29Các thị tộc thuộc dòng họ Cơ-hát đóng trại bên cạnh Nhà Tạm, ở phía nam. 30Đứng đầu dòng họ Cơ-hát là Ê-li-xa-phan, con của Út-di-ên. 31Công việc của họ là trông coi Hòm Bia, bàn, trụ đèn, các bàn thờ, các đồ thờ dùng trong thánh điện, bức màn, cũng như tất cả các dịch vụ liên hệ. 32Đứng đầu các thủ lãnh của các thầy Lê-vi là ông E-la-da, con tư tế A-ha-ron. Ông giám sát các nhân viên phụ trách công việc trong nơi thánh.
33Về phần Mơ-ra-ri, có thị tộc Mác-li và thị tộc Mu-si. Đó là các thị tộc thuộc dòng họ Mơ-ra-ri. 34Những người được kiểm tra, tính tất cả các con trai của họ, tuổi từ một tháng trở lên, là 6.200. 35Đứng đầu dòng họ Mơ-ra-ri là Xu-ri-ên, con A-vi-kha-gin. Họ đóng trại bên cạnh Nhà Tạm, ở phía bắc. 36Công việc của con cháu Mơ-ra-ri là trông coi các tấm ván của Nhà Tạm, các thanh ngang, các cột, đế, cũng như các đồ phụ thuộc và các dịch vụ liên hệ, 37cũng như các cột chung quanh khuôn viên cùng với các đế, cọc và dây thừng.
38Các người đóng trại trước Nhà Tạm ở phía đông, nghĩa là trước Lều Hội Ngộ, hướng mặt trời mọc, là ông Mô-sê, ông A-ha-ron và các con ông này, là những người có trách nhiệm trông coi thánh điện thay cho con cái Ít-ra-en; còn ai khác mà tới gần sẽ phải chết. 39Tổng số những người được kiểm tra thuộc dòng họ Lê-vi, những người ông Mô-sê và ông A-ha-ron đã theo lệnh ĐỨC CHÚA mà kiểm tra theo các thị tộc của họ, tất cả các con trai tuổi từ một tháng trở lên, là 22.000.E. Các người thuộc chi tộc Lê-vi. Chuộc các con đầu lòng.
40ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Hãy kiểm tra tất cả các trưởng nam của con cái Ít-ra-en, tuổi từ một tháng trở lên, và lập danh sách chúng. 41Ta là ĐỨC CHÚA. Hãy dành các người Lê-vi cho Ta thay cho tất cả các trưởng nam trong số con cái Ít-ra-en, và hãy dành súc vật của các người Lê-vi thay cho tất cả các con vật đầu lòng trong đàn vật của con cái Ít-ra-en." 42Theo như ĐỨC CHÚA đã truyền, ông Mô-sê kiểm tra tất cả các con đầu lòng trong số con cái Ít-ra-en. 43Tổng số các trưởng nam được ghi tên để kiểm tra, tuổi từ một tháng trở lên, là 22.273.
44ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 45"Hãy lấy các người Lê-vi thay cho các trưởng nam của con cái Ít-ra-en, và súc vật của các người Lê-vi thay thế các súc vật của chúng: các người Lê-vi sẽ thuộc về Ta. Ta là ĐỨC CHÚA. 46Để làm giá chuộc 273 trưởng nam của con cái Ít-ra-en dôi hơn số người Lê-vi, 47ngươi sẽ lấy mỗi đầu người là mười lăm chỉ bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 48Ngươi sẽ đưa số bạc này cho A-ha-ron và con cái ông làm tiền chuộc số người dôi ra kể trên."
49Ông Mô-sê đã nhận món tiền chuộc số người dôi ra mà các người Lê-vi không chuộc thay. 50Số bạc thu được của các trưởng nam trong số con cái Ít-ra-en là mười bốn ký, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 51Ông Mô-sê đã trao số tiền chuộc cho ông A-ha-ron và con cái ông này theo lệnh ĐỨC CHÚA, như Người đã truyền.
Các thị tộc Lê-vi
1ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 2"Ngươi hãy lập danh sách con cháu Cơ-hát trong dòng họ Lê-vi theo thị tộc và gia tộc chúng, 3tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ, để chúng phục vụ trong Lều Hội Ngộ.4Dịch vụ của con cháu Cơ-hát trong Lều Hội Ngộ là phụ trách các đồ thờ cực thánh.
5Khi nhổ trại, A-ha-ron sẽ cùng với các con vào Lều, cuốn bức trướng mà phủ lên Hòm Bia Chứng Ước. 6Chúng sẽ trải lên đó tấm bạt bằng da cá heo, và trên tấm bạt này sẽ phủ tấm vải toàn màu đỏ tía, rồi lắp các đòn khiêng vào.
7Trên bàn dâng tiến, chúng sẽ trải một tấm vải đỏ tía, rồi đặt lên đó các khay, ly, chén và bình dùng trong lễ tưới rượu. Bánh thường tiến cũng phải có trên đó. 8Chúng sẽ phủ lên một tấm vải đỏ thẫm và trải thêm tấm bạt da cá heo, rồi lắp các đòn khiêng vào.
9Chúng sẽ lấy tấm vải đỏ tía mà phủ trụ đèn và đèn, kéo cắt bấc đèn, các đĩa đựng tàn, tất cả các bình đựng dầu đèn. 10Chúng sẽ để chân đèn cùng tất cả các đồ phụ tùng vào một cái bao da cá heo và đặt lên cáng.
11Trên bàn thờ bằng vàng, chúng sẽ trải tấm vải đỏ tía và phủ thêm một tấm bạt da cá heo, rồi lắp các đòn khiêng vào.
12Chúng sẽ lấy các đồ dùng vào việc thờ phượng nơi thánh điện, đem bọc trong tấm vải đỏ tía, phủ thêm một tấm bạt da cá heo, rồi đặt lên cáng.
13Sau khi đã lấy tro khỏi bàn thờ và trải lên tấm vải điều, 14chúng sẽ đặt trên đó tất cả đồ dùng vào việc thờ phượng: bình hương, xiên, xẻng, bình rảy, tất cả đồ phụ tùng của bàn thờ, phủ lên đó một tấm bạt bằng da cá heo, và lắp các đòn khiêng vào.
15Khi A-ha-ron và các con đã hoàn thành việc che phủ thánh điện cùng tất cả các đồ phụ tùng, lúc nhổ trại, thì các con của Cơ-hát sẽ đến khiêng đi; nhưng chúng sẽ không được đụng tới các vật thánh, kẻo phải chết. Đó là những gì con cái Cơ-hát phải khiêng trong Lều Hội Ngộ. 16Phận sự của E-la-da, con tư tế A-ha-ron, là lo dầu đèn, hương thơm, lễ phẩm thường tiến, dầu tấn phong; nó phải trông coi toàn bộ Nhà Tạm cùng mọi vật trong đó: các vật thánh và các đồ phụ tùng."
17ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 18"Các ngươi đừng để cho dòng họ các thị tộc Cơ-hát bị xoá bỏ khỏi chi tộc Lê-vi. 19Để chúng được sống chứ không phải chết khi tới gần các vật cực thánh, các ngươi sẽ xử với chúng như thế này: A-ha-ron và các con sẽ đến và đặt mỗi người trước cái gì phải làm, trước cái gì phải khiêng vác. 20Như vậy chúng sẽ không vào mà nhìn các đồ thánh, dù một giây lát, để rồi phải chết."B. Thị tộc Ghéc-sôn
21ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 22"Ngươi cũng hãy lập danh sách con cháu Ghéc-sôn nữa theo gia tộc và thị tộc của chúng; 23những người tuổi từ ba mươi đến năm mươi, ngươi sẽ kiểm tra hết, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ, để chúng phục vụ trong Lều Hội Ngộ. 24Đây là dịch vụ mà các thị tộc Ghéc-sôn phải chu toàn: 25chúng sẽ mang các tấm thảm của Nhà Tạm và Lều Hội Ngộ, bạt che Lều, tức tấm bạt bằng da cá heo phủ trên Lều, màn che cửa Lều Hội Ngộ, 26các tấm rèm của khuôn viên, màn che cửa khuôn viên nằm quanh Nhà Tạm và bàn thờ, các dây buộc, các đồ dùng cần thiết cho dịch vụ của chúng, tóm lại tất cả những gì liên quan tới dịch vụ ấy.
27Con cái Ghéc-sôn phải thi hành mọi dịch vụ khiêng vác cũng như phục dịch, dưới quyền điều khiển của A-ha-ron và các con; các ngươi hãy giao cho chúng trông coi tất cả những gì chúng phải khiêng vác. 28Đó là dịch vụ dành cho các thị tộc con cái Ghéc-sôn trong Lều Hội Ngộ, và chúng làm việc dưới quyền kiểm soát của I-tha-ma, con tư tế A-ha-ron.C. Thị tộc Mơ-ra-ri
29Ngươi hãy kiểm tra con cháu Mơ-ra-ri theo thị tộc và gia tộc của chúng, 30tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ, để chúng phục vụ trong Lều Hội Ngộ. 31Đây là những đồ vật chúng có trách nhiệm phải khiêng vác liên quan đến dịch vụ của chúng trong Lều Hội Ngộ: khung Nhà Tạm, cột, kèo và đế, 32các cột chung quanh khuôn viên cùng các đế, cọc đóng, dây thừng và tất cả đồ phụ tùng liên quan đến dịch vụ của chúng. Vậy các ngươi hãy kê khai từng thứ một tất cả các đồ vật chúng có trách nhiệm phải khiêng vác.
33Đó là các dịch vụ dành cho các thị tộc con cái Mơ-ra-ri, dịch vụ mà chúng phải thi hành trong Lều Hội Ngộ, dưới quyền kiểm soát của I-tha-ma, con tư tế A-ha-ron."
Kiểm tra chi tộc Lê-vi
34Ông Mô-sê cùng với ông A-ha-ron và các vị lãnh đạo cộng đồng đã kiểm tra con cháu Cơ-hát theo thị tộc và gia tộc họ, 35tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những người đến tuổi nhập ngũ, để họ phục dịch trong Lều Hội Ngộ. 36Tổng số người được kiểm tra, tính theo thị tộc, là 2.750. 37Đó là số những người trong thị tộc Cơ-hát được kiểm tra, tất cả những người phục vụ trong Lều Hội Ngộ, mà ông Mô-sê và ông A-ha-ron đã kiểm tra theo lệnh ĐỨC CHÚA đã truyền qua ông Mô-sê.38Số con cháu Ghéc-sôn được kiểm tra theo thị tộc và gia đình tổ tiên họ, 39tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những người đến tuổi nhập ngũ, để phục vụ trong Lều Hội Ngộ, 40tổng số những người được kiểm tra, theo thị tộc và gia tộc họ, là 2.630. 41Đó là số con cháu Ghéc-sôn được kiểm tra theo thị tộc, tất cả những người phục vụ trong Lều Hội Ngộ: ông Mô-sê cùng với ông A-ha-ron kiểm tra họ theo lệnh ĐỨC CHÚA.
42Các con cháu Mơ-ra-ri được kiểm tra theo thị tộc và gia tộc, 43tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ, để phục vụ trong Lều Hội Ngộ, 44tổng số những người được kiểm tra, tính theo thị tộc của họ, là 3.200. 45Đó là các thị tộc con cháu Mơ-ra-ri, mà ông Mô-sê đã cùng với ông A-ha-ron kiểm tra theo lệnh ĐỨC CHÚA đã truyền qua ông Mô-sê.
46Tổng số những người Lê-vi mà ông Mô-sê cùng với ông A-ha-ron và các vị lãnh đạo Ít-ra-en đã kiểm tra theo thị tộc và gia tộc của họ, 47tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những người đến tuổi phục dịch và khiêng vác trong Lều Hội Ngộ, 48tổng số những người được kiểm tra là 8.580. 49Theo lệnh ĐỨC CHÚA truyền qua ông Mô-sê, người ta kiểm tra họ, chỉ định cho mỗi người việc phải làm và đồ vật phải khiêng vác. Thế là họ được kiểm tra như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.
II. CÁC THỨ LUẬT LỆ
Loại trừ những người nhiễm uế
1ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 2"Hãy truyền cho con cái Ít-ra-en phải đuổi ra khỏi trại mọi người phong hủi, mọi kẻ mắc bệnh lậu, mọi người nhiễm uế vì xác chết: 3Các ngươi phải đuổi chúng, bất kể đàn ông hay đàn bà, các ngươi phải đuổi ra khỏi trại, kẻo chúng làm ô uế trại, nơi Ta cư ngụ ở giữa chúng."4Con cái Ít-ra-en đã làm như thế: họ đã đuổi những người ấy ra khỏi trại. Con cái Ít-ra-en đã làm như ĐỨC CHÚA đã phán với ông Mô-sê.
Luật bồi hoàn
5ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 6"Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en: "Phàm ai, đàn ông hay đàn bà, vì bất trung với ĐỨC CHÚA, mà phạm một trong những tội người ta quen phạm, thì con người ấy phải chịu phạt.7Nó phải xưng thú tội mình đã phạm và đền bù đầy đủ, ngoài ra còn phải trả thêm một phần năm nữa cho người mình đã làm thiệt hại.
8Nếu người này không có bà con gần để lãnh của bồi thường thiệt hại, thì vật bồi thường sẽ thuộc về ĐỨC CHÚA, tức là thuộc về tư tế, chưa kể con dê xá tội phải dâng để làm nghi thức xá tội cho người mắc lỗi.
9Mọi của trích dâng và mọi hiến vật mà con cái Ít-ra-en dâng cho tư tế đều thuộc về tư tế. 10Hiến vật của ai thì thuộc về người ấy; còn nếu đã dâng cho tư tế thì là của tư tế."
Luật về chuyện ghen tuông
11ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 12"Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Nếu ai bị vợ mất nết phản bội, 13nghĩa là có người nằm với người đàn bà ấy mà người chồng không biết; và người vợ đã bí mật thất tiết mà không có ai làm chứng cáo tội, không bắt được quả tang; 14hoặc người chồng nổi máu ghen và ghen tức vợ đã thực sự thất tiết, hoặc nổi máu ghen và ghen tức vợ mà thật ra vợ đã không thất tiết, 15thì bấy giờ người chồng phải dẫn vợ đến gặp tư tế, mà tiến dâng bốn lít rưỡi bột lúa mạch vì chuyện vợ mình; nhưng không rưới dầu lên trên và cũng không đổ hương vào, bởi đó là lễ phẩm dâng vì ghen tuông, lễ phẩm để tố cáo tội lỗi.16Tư tế sẽ đưa người đàn bà đến đứng trước nhan ĐỨC CHÚA, 17và lấy một bình sành đựng nước thánh, rồi lấy chút bụi trên nền Nhà Tạm bỏ vào nước. 18Sau đó, tư tế đặt người đàn bà đứng trước nhan ĐỨC CHÚA và lột khăn trùm đầu nó ra, rồi đặt lên hai bàn tay nó lễ phẩm tố cáo, nghĩa là lễ phẩm vì ghen tuông; đồng thời tay tư tế cầm bình nước chỉ sự đắng cay và nguyền rủa. 19Bấy giờ tư tế sẽ buộc người đàn bà thề và nói với nó rằng: "Nếu đã không có người đàn ông nào nằm với chị và nếu chị đã không mất nết mà thất tiết khi chị đang có chồng, thì nước đắng cay và nguyền rủa này sẽ vô hại cho chị. 20Còn nếu chị có chồng mà mất nết và đã thất tiết với chồng, vì một người đàn ông khác, không phải là chồng chị, đã cho chị nằm với nó - 21tư tế buộc người đàn bà thề độc và nói với nó - Xin ĐỨC CHÚA làm cho dạ chị héo đi, bụng chị sình lên, khiến giữa đồng bào chị, chị thành đề tài cho người ta nguyền rủa và chúc dữ cho nhau. 22Xin cho nước đắng cay này ngấm vào nội tạng chị, khiến bụng chị sình lên và dạ chị héo đi. Người đàn bà ấy sẽ thưa: "A-men. A-men.
23Tư tế viết những lời nguyền rủa ấy vào giấy và cho nhoà đi trong nước đắng cay, 24rồi bắt người đàn bà phải uống nước đắng cay và nguyền rủa đó; nước nguyền rủa sẽ ngấm vào người ấy để gây ra cay đắng. 25Tư tế sẽ nhận lấy từ tay người đàn bà lễ phẩm vì ghen tuông, làm nghi thức trước nhan ĐỨC CHÚA và đặt trên bàn thờ. 26Tư tế sẽ bốc một nắm từ lễ phẩm đó, làm phần truy tưởng, mà đốt trên bàn thờ.
27Tư tế cho nó uống nước rồi, nếu thật nó đã thất tiết và phản bội chồng, thì nước nguyền rủa sẽ ngấm vào nó để gây ra cay đắng, và tạng phủ nó sẽ sình lên, dạ nó héo đi. Giữa đồng bào, người đàn bà đó sẽ thành đề tài nguyền rủa. 28Nếu người đàn bà đó đã không thất tiết, nhưng vẫn trong sạch, thì sẽ không bị hại và sẽ sinh con.
29Đó là luật về chuyện ghen tuông, khi một người đàn bà có chồng mà mất nết và đã thất tiết với chồng, 30hoặc khi người đàn ông nổi máu ghen và ghen tức vợ mình: thì người chồng phải đặt vợ trước nhan ĐỨC CHÚA, và tư tế phải áp dụng đầy đủ luật này. 31Người chồng sẽ vô can, còn người đàn bà sẽ mang lấy tội mình."
Luật về lời khấn na-dia
1ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 2"Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng:3thì nó phải kiêng rượu và men nồng: không được uống giấm chua từ chất rượu cũng như giấm chua từ chất men, không được uống mọi thứ nước nho, không được ăn nho tươi cũng như nho khô. 4Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn đó, thì bất cứ thứ gì chiết xuất tự cây nho, từ hột nho cho đến vỏ nho, nó cũng không được ăn. 5Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn, dao cạo không được đụng đến đầu nó; bao lâu chưa mãn thời kỳ khấn đặc biệt để kính ĐỨC CHÚA, thì nó sẽ là người được thánh hiến: nó phải để cho tóc trên đầu mọc tự nhiên. 6Suốt thời kỳ khấn đặc biệt để kính ĐỨC CHÚA, nó không được tới gần xác chết. 7Dù là cha mẹ hay anh chị em nó chết, nó cũng không được để cho mình nhiễm uế, bởi vì nó mang trên đầu lời khấn na-dia kính Thiên Chúa. 8Suốt thời kỳ khấn đặc biệt, nó sẽ là người được thánh hiến cho ĐỨC CHÚA.
9Nếu có ai chết bất ngờ bên cạnh nó, khiến cho đầu na-dia của nó bị nhiễm uế, thì nó phải cạo đầu trong ngày tẩy uế; ngày thứ bảy nó sẽ cạo đầu. 10Ngày thứ tám nó sẽ mang một cặp chim gáy hay một cặp bồ câu trao cho tư tế ở cửa Lều Hội Ngộ. 11Tư tế sẽ dâng một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu, và sẽ làm nghi thức xá tội ô uế nó mắc phải vì người chết. Chính hôm đó nó sẽ thánh hiến đầu mình, 12nó sẽ lại khấn đặc biệt kiêng giữ để kính ĐỨC CHÚA và đưa một con chiên một tuổi tới làm lễ vật đền tội. Thời gian trước đó không được kể vì lời khấn na-dia đã bị vi phạm.
13Và đây là luật về người khấn na-dia: trong ngày mãn thời kỳ khấn na-dia, nó sẽ vào cửa Lều Hội Ngộ 14và đem lễ tiến dâng ĐỨC CHÚA: một chiên đực một tuổi, toàn vẹn, làm lễ toàn thiêu, một chiên cái một tuổi, toàn vẹn, làm lễ tạ tội, một con dê đực toàn vẹn làm lễ kỳ an, 15một rổ bánh không men làm bằng tinh bột nhào dầu, bánh tráng không men tẩm dầu, cùng với các lễ phẩm ngũ cốc và rượu tế kèm theo. 16Tư tế sẽ đưa những lễ vật ấy tới trước nhan ĐỨC CHÚA để dâng lễ tạ tội và lễ toàn thiêu của nó. 17Con chiên đực, ông sẽ sát tế để làm lễ kỳ an kính ĐỨC CHÚA cùng với rổ bánh không men, đồng thời tư tế cũng dâng lễ phẩm ngũ cốc và rượu tế. 18Người na-dia sẽ cạo đầu trước cửa Lều Hội Ngộ theo lời khấn, và lấy tóc đã được thánh hiến của mình mà bỏ vào lửa đang cháy dưới của lễ kỳ an. 19Khi bả vai của con dê đã chín, thì tư tế lấy bả vai đó, cùng với một chiếc bánh không men trong rổ và một bánh tráng không men, và đặt các thứ đó vào tay người na-dia, sau khi người này đã cạo đầu theo lời khấn. 20Rồi tư tế tiến dâng các thứ ấy trước nhan ĐỨC CHÚA, theo nghi thức: đó là của thánh dành cho tư tế, không kể cái ức đã được tiến dâng theo nghi thức và phần đùi được giữ lại. Từ đó, người na-dia được phép uống rượu.
21Đó là luật về người khấn na-dia. Lễ tiến của nó dâng cho ĐỨC CHÚA phải theo đúng lời khấn na-dia, ngoài ra nó có thể tuỳ khả năng mình mà dâng thêm. Nó đã khấn theo luật na-dia thế nào, thì phải giữ như vậy."Công thức chúc lành
22ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 23"Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này:
24"Nguyện ĐỨC CHÚA chúc lành và gìn giữ anh (em)!
25Nguyện ĐỨC CHÚA tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh (em)!
26Nguyện ĐỨC CHÚA ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh (em)!
27Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng."
III. TẾ PHẨM CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU CÁC CHI TỘC VÀ NGHI THỨC TẤN PHONG CÁC THẦY LÊ-VI
Dâng các cỗ xe
1Ngày ông Mô-sê hoàn thành việc dựng Nhà Tạm, ông xức dầu và thánh hiến nhà ấy cùng với tất cả các vật dụng, bàn thờ và mọi đồ dùng. Khi ông đã xức dầu và thánh hiến tất cả, 2thì các người đứng đầu Ít-ra-en đã dâng lễ vật; họ là các gia trưởng, những người đứng đầu các chi tộc và phụ trách việc kiểm tra. 3Lễ tiến họ dâng trước nhan ĐỨC CHÚA là sáu cỗ xe kiệu và mười hai con bò, cứ hai người dâng một cỗ xe và mỗi người một con bò. Họ đem dâng những thứ đó trước Nhà Tạm. 4ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 5"Ngươi hãy nhận các vật chúng dâng để sung vào việc phục dịch Lều Hội Ngộ; ngươi sẽ trao các thứ ấy cho các thầy Lê-vi, theo dịch vụ của mỗi người." 6Vậy ông Mô-sê đã nhận xe và bò, rồi trao cho các thầy Lê-vi: 7hai cỗ xe và bốn con bò cho các con ông Ghéc-sôn theo dịch vụ của họ; 8còn bốn cỗ xe và tám con bò kia, thì trao cho các con ông Mơ-ra-ri, theo dịch vụ của họ dưới quyền kiểm soát của ông I-tha-ma, con tư tế A-ha-ron. 9Phần các con ông Cơ-hát, thì ông Mô-sê không cho gì cả, vì dịch vụ của họ là khiêng các đồ thờ trên vai.Lễ vật trong nghi thức cung hiến
10Các người đứng đầu còn tiến dâng lễ vật để cử hành nghi thức cung hiến bàn thờ, trong ngày bàn thờ được xức dầu. Các người đứng đầu tiến dâng lễ vật của họ lên trước bàn thờ. 11Và ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Mỗi ngày, một trong số những người đứng đầu phải dâng lễ tiến để cử hành nghi thức cung hiến bàn thờ."12Người tiến dâng lễ vật ngày đầu tiên là ông Nác-sôn, con ông Am-mi-na-đáp, thuộc chi tộc Giu-đa. 13Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 14một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 15một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 16một con dê đực làm lễ tạ tội; 17và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Đó là lễ tiến mà ông Nác-sôn, con ông Am-mi-na-đáp, đã dâng.
18Ngày thứ hai, người đem dâng lễ vật là ông Nơ-than-ên, con ông Xu-a, đứng đầu Ít-xa-kha. 19Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 20một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 21một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 22một con dê đực làm lễ tạ tội; 23và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Đó là lễ tiến mà ông Nơ-than-ên, con ông Xu-a, đã dâng.
24Ngày thứ ba, người đem dâng lễ vật là ông Ê-li-áp, con ông Khe-lôn, đứng đầu con cái Dơ-vu-lun. 25Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng, -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 26một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 27một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 28một con dê đực làm lễ tạ tội; 29và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Đó là lễ tiến ông Ê-li-áp, con ông Khe-lôn, đã dâng.
30Ngày thứ bốn, người đem dâng lễ vật là ông Ê-li-xua, con ông Sơ-đê-ua, đứng đầu con cái Rưu-vên. 31Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 32một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 33một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 34một con dê đực làm lễ tạ tội; 35và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Đó là lễ tiến mà ông Ê-li-xua, con ông Sơ-đê-ua, đã dâng.
36Ngày thứ năm, người đem dâng lễ vật là ông Sơ-lu-mi-ên, con ông Xu-ri-sát-đai, đứng đầu con cái Si-mê-ôn. 37Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 38một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 39một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 40một con dê đực làm lễ tạ tội; 41và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Đó là lễ tiến mà ông Sơ-lu-mi-en, con ông Xu-ri-sát-đai, đã dâng.
42Ngày thứ sáu, người đem dâng lễ vật là ông En-gia-xáp, con ông Rơ-u-ên, đứng đầu con cái Gát. 43Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 44một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 45một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 46một con dê đực làm lễ tạ tội; 47và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Đó là lễ tiến mà ông En-gia-xáp, con ông Rơ-u-ên, đã dâng.
48Ngày thứ bảy, người đem dâng lễ vật là ông Ê-li-sa-ma, con ông Am-mi-hút, đứng đầu con cái Ép-ra-im. 49Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 50một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 51một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 52một con dê đực làm lễ tạ tội; 53và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Đó là lễ tiến mà ông Ê-li-sa-ma, con ông Am-mi-hút, đã dâng.
54Ngày thứ tám, người đem dâng lễ vật là ông Gam-li-ên, con ông Pơ-đa-xua, đứng đầu con cái Mơ-na-se. 55Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 56một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 57một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 58một con dê đực làm lễ tạ tội; 59và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Đó là lễ tiến mà ông Gam-li-ên, con ông Pơ-đa-xua, đã dâng.
60Ngày thứ chín, người đem dâng lễ vật là ông A-vi-đan, con ông Ghít-ô-ni, đứng đầu con cái Ben-gia-min. 61Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 62một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 63một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 64một con dê đực làm lễ tạ tội; 65và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Đó là lễ tiến mà ông A-vi-đan, con ông Ghít-ô-ni, đã dâng.
66Ngày thứ mười, người đem dâng lễ vật là ông A-khi-e-de, con ông Am-mi-sát-đai, đứng đầu con cái Đan. 67Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 68một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 69một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 70một con dê đực làm lễ tạ tội; 71và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Đó là lễ tiến mà ông A-khi-e-de, con ông Am-mi-sát-đai, đã dâng.
72Ngày thứ mười một, người đem dâng lễ vật là ông Pác-i-ên, con ông Oóc-ran, đứng đầu con cái A-se. 73Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 74một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 75một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 76một con dê đực làm lễ tạ tội; 77và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Đó là lễ tiến mà ông Pác-i-ên, con ông Oóc-ran, đã dâng.
78Ngày thứ mười hai, người đem dâng lễ vật là ông A-khi-ra, con ông Ê-nan, đứng đầu con cái Náp-ta-li. 79Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 80một chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 81một con bò mộng, một con chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 82một con dê đực làm lễ tạ tội; 83và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Đó là lễ tiến mà ông A-khi-ra, con ông Ê-nan, đã dâng.
84Trên đây là những lễ vật các người đứng đầu Ít-ra-en dâng cúng để cử hành nghi thức cung hiến bàn thờ trong ngày bàn thờ được xức dầu: mười hai khay bằng bạc, mười hai bình rảy bằng bạc, mười hai chén bằng vàng. 85Mỗi khay nặng một ký ba, và mỗi bình rảy là bảy lạng. Tất cả các vật dụng bằng bạc ấy cân nặng hai mươi bốn ký tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 86Mười hai chén bằng vàng đựng đầy hương thơm, mỗi chén ba lượng vàng, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. Tất cả các chén bằng vàng ấy cân nặng một ký hai.
87Tổng số súc vật làm lễ toàn thiêu là: mười hai bò mộng, mười hai chiên đực, mười hai chiên con một tuổi cùng với lễ phẩm bằng ngũ cốc kèm theo, mười hai con dê đực làm lễ tạ tội. 88Và tổng số súc vật làm lễ kỳ an là: hai mươi bốn bò mộng, sáu mươi chiên đực, sáu mươi dê đực, sáu mươi chiên con một tuổi. Đó là những lễ vật dùng trong nghi thức cung hiến bàn thờ sau khi xức dầu bàn thờ.
89Khi ông Mô-sê vào Lều Hội Ngộ để đàm đạo với ĐỨC CHÚA, thì ông nghe có tiếng nói với ông từ phía trên nắp xá tội, tức là nắp đậy Hòm Bia Chứng Ước, từ giữa hai thần hộ giá. Và ông đã đàm đạo với Người.
Các ngọn đèn trên trụ đèn
1ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 2"Hãy nói với A-ha-ron và bảo nó: khi thắp đèn lên thì bảy ngọn đèn phải toả sáng về phía trước trụ đèn." 3Ông A-ha-ron đã làm như thế, ông đã thắp đèn hướng về phía trước trụ đèn, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê. 4Trụ đèn được làm như sau: làm bằng vàng gò, từ thân trụ cho tới các nhánh đều được gò. Ông Mô-sê đã làm trụ đèn theo mẫu ĐỨC CHÚA đã cho ông thấy.Các thầy Lê-vi được dâng cho ĐỨC CHÚA5ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 6"Hãy đưa các thầy Lê-vi ra khỏi đám con cái Ít-ra-en mà thanh tẩy chúng. 7Ngươi sẽ làm thế này để thanh tẩy chúng: Hãy rảy nước xá tội trên chúng; chúng sẽ cạo toàn thân, giặt sạch áo mà thanh tẩy mình. 8Chúng sẽ lấy một con bò mộng và tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, còn ngươi thì sẽ lấy một con bò mộng nữa làm của lễ tạ tội.
9Rồi ngươi sẽ đưa các thầy Lê-vi tới trước Lều Hội Ngộ và tập họp toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en lại. 10Ngươi sẽ dẫn các thầy Lê-vi tới trước nhan ĐỨC CHÚA, và con cái Ít-ra-en sẽ đặt tay trên chúng. 11A-ha-ron sẽ thay mặt con cái Ít-ra-en làm nghi thức tiến dâng các thầy Lê-vi lên trước nhan ĐỨC CHÚA, và chúng sẽ sung vào việc phục vụ ĐỨC CHÚA.
12Sau đó các thầy Lê-vi sẽ đặt tay lên đầu các con bò mộng. Ngươi sẽ dâng một con làm của lễ tạ tội, và một con làm của lễ toàn thiêu dâng ĐỨC CHÚA để xin ơn xá tội cho các thầy Lê-vi. 13Ngươi sẽ đặt các thầy Lê-vi đứng trước mặt A-ha-ron và các con ông, rồi tiến dâng chúng cho ĐỨC CHÚA, theo nghi thức. 14Như thế, ngươi sẽ tách rời các thầy Lê-vi ra khỏi con cái Ít-ra-en: chúng sẽ thuộc về Ta. 15Sau đó các thầy Lê-vi sẽ vào phục vụ Lều Hội Ngộ.
16Thật vậy, chúng được dâng hiến, được dâng hiến cho Ta, từ giữa con cái Ít-ra-en. Ta đã chọn chúng làm của riêng Ta, thay thế tất cả các con đầu lòng, các trưởng nam của con cái Ít-ra-en. 17Thật vậy, tất cả các con đầu lòng trong số con cái Ít-ra-en, của loài người cũng như của súc vật đều thuộc về Ta. Ngày Ta đánh phạt tất cả các con đầu lòng trong đất Ai-cập, Ta đã thánh hiến chúng cho Ta, 18và Ta đã nhận các thầy Lê-vi thay thế tất cả các con đầu lòng trong con cái Ít-ra-en. 19Trong số con cái Ít-ra-en, Ta đã trao các thầy Lê-vi cho A-ha-ron và cho con cái nó, như những người được dâng hiến để sung vào việc phục dịch của con cái Ít-ra-en trong Lều Hội Ngộ, và để cử hành lễ xá tội cho con cái Ít-ra-en; như thế trong con cái Ít-ra-en sẽ không xảy ra tai hoạ phạt kẻ tới gần nơi thánh."
20Đối với các thầy Lê-vi, ông Mô-sê và ông A-ha-ron cùng toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en đã thi hành đúng mọi điều ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê về họ; con cái Ít-ra-en đã thi hành như thế đối với họ. 21Các thầy Lê-vi đã thanh tẩy mình và giặt áo; ông A-ha-ron đã cử hành nghi thức trên dâng họ trước nhan ĐỨC CHÚA, và đã làm lễ xá tội cho họ để thanh tẩy họ. 22Sau đó các thầy Lê-vi đã vào làm việc phục dịch trong Lều Hội Ngộ, trước mặt ông A-ha-ron và các con. ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê thế nào về các thầy Lê-vi, thì người ta đã thi hành như thế đối với họ.Thời gian phục vụ của các thầy Lê-vi
23ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 24"Đây là những điều liên quan tới các thầy Lê-vi. Từ hai mươi lăm tuổi trở lên, mỗi người phải vào thi hành nghĩa vụ phục dịch Lều Hội Ngộ, 25và từ năm mươi tuổi thì được về hưu, không phải phục dịch nữa. 26Người ấy sẽ giúp anh em chu toàn nhiệm vụ trong Lều Hội Ngộ, còn nhiệm vụ của mình thì không phải thi hành nữa. Ngươi sẽ bố trí công việc cho các thầy Lê-vi như thế."
IV. LỄ VƯỢT QUA VÀ CUỘC LÊN ĐƯỜNG
Ngày ăn mừng lễ Vượt Qua
1Tháng giêng năm thứ hai từ khi ra khỏi đất Ai-cập, ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê trong sa mạc Xi-nai rằng: 2"Con cái Ít-ra-en phải mừng lễ Vượt Qua vào thời gian quy định. 3Ngày mười bốn tháng này, lúc chập tối, các ngươi sẽ mừng lễ ấy vào giờ quy định, các ngươi sẽ cứ điều luật và tục lệ mà cử hành lễ ấy."4Vậy ông Mô-sê đã nói với con cái Ít-ra-en phải cử hành lễ Vượt Qua; 5và họ đã cử hành lễ Vượt Qua vào tháng giêng, ngày mười bốn, lúc chập tối, trong sa mạc Xi-nai. ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê thế nào, thì con cái Ít-ra-en đã thi hành như thế.
Trường hợp đặc biệt
6Có những người nhiễm uế vì đụng đến xác chết, không thể mừng lễ Vượt Qua ngày hôm ấy. Ngay hôm ấy, họ đã đến gặp ông Mô-sê và ông A-ha-ron, 7và thưa với các ông rằng: "Chúng tôi bị nhiễm uế vì đụng đến xác chết, tại sao chúng tôi bị cấm không được dâng lễ tiến lên ĐỨC CHÚA vào thời gian quy định, cùng với con cái Ít-ra-en? " 8Ông Mô-sê nói với họ: "Anh em cứ đứng đó, để tôi đi thỉnh ý ĐỨC CHÚA xem Người có dạy gì về anh em."9ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 10"Hãy nói với con cái Ít-ra-en:
11Tháng thứ hai, ngày mười bốn lúc chập tối, chúng sẽ mừng lễ đó. Chúng sẽ ăn chiên Vượt Qua với bánh không men và rau đắng. 12Chúng sẽ không để gì thừa lại cho đến sáng hôm sau, và cũng không được làm giập gẫy một xương nào của nó; chúng sẽ mừng lễ Vượt Qua theo đúng mọi điều luật về lễ ấy. 13Còn người nào vẫn trong sạch, lại không đi xa, mà bỏ không mừng lễ Vượt Qua, thì người đó sẽ bị khai trừ khỏi đồng bào mình, vì nó đã không dâng lễ tiến lên ĐỨC CHÚA vào thời đã quy định; nó phải mang lấy tội mình.
14Nếu một ngoài kiều cư ngụ với các ngươi, mà mừng lễ Vượt Qua kính ĐỨC CHÚA, thì nó cũng phải cứ theo điều luật và tục lệ về lễ Vượt Qua mà cử hành; chỉ có một điều luật chung, cho các ngươi, ngoại kiều cũng như người bản xứ."
Cột mây (Xh 40:34-38)
15Trong ngày dựng Nhà Tạm, có mây che phủ Nhà Tạm và Lều Chứng Ước, nhưng đêm đến thì trông như lửa trên Nhà Tạm cho tới sáng. 16Cứ xảy ra liên tục như thế: mây che phủ Nhà Tạm ban ngày, đêm thì trông như lửa.17Mỗi lần mây bốc lên cao khỏi Lều, thì con cái Ít-ra-en nhổ trại, và nơi nào mây đậu lại, thì ở đó con cái Ít-ra-en đóng trại. 18Cứ lệnh ĐỨC CHÚA mà con cái Ít-ra-en lên đường, và cứ lệnh ĐỨC CHÚA mà họ đóng trại; bao lâu mây đậu lại trên Nhà Tạm, thì họ tiếp tục đóng trại. 19Khi mây đậu trên Nhà Tạm lâu ngày, thì con cái Ít-ra-en giữ y như điều ĐỨC CHÚA truyền và không nhổ trại lên đường. 20Có khi mây chỉ đậu ít ngày trên Nhà Tạm, thì họ cũng cứ lệnh ĐỨC CHÚA mà đóng trại, và cứ lệnh ĐỨC CHÚA mà nhổ trại lên đường. 21Có khi mây đậu lại từ chiều tối tới sáng, và ban sáng khi mây bốc lên, thì lúc đó họ nhổ trại lên đường. 22Nếu mây lưu lại trên Nhà Tạm hai ngày, hoặc một tháng hay mấy ngày thôi, thì con cái Ít-ra-en cũng cứ theo đó mà đóng trại, chứ không nhổ trại lên đường; rồi khi mây bốc lên, họ mới nhổ trại lên đường. 23Cứ lệnh ĐỨC CHÚA họ đóng trại, và cứ lệnh ĐỨC CHÚA họ nhổ trại; ĐỨC CHÚA buộc giữ thế nào, thì họ tuân giữ như thế, theo lệnh ĐỨC CHÚA truyền qua ông Mô-sê.
Kèn bạc
1ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 2"Ngươi hãy làm hai chiếc kèn, làm bằng bạc gò, để dùng mà triệu tập cộng đồng và nhổ trại. 3Khi các kèn thổi, thì toàn thể cộng đồng tập họp lại bên ngươi, tại cửa Lều Hội Ngộ. 4Nếu thổi một chiếc, thì các kỳ mục, những người đứng đầu các thị tộc Ít-ra-en, sẽ tập họp lại bên ngươi.5Khi các ngươi thổi kèn báo động, thì các trại nằm ở phía đông sẽ lên đường. 6Khi các ngươi thổi kèn báo động lần thứ hai, thì các trại ở phía nam sẽ lên đường. Kèn báo động sẽ nổi lên mỗi khi phải nhổ trại lên đường. 7Còn khi triệu tập đại hội, thì thổi kèn, mà không được báo động. 8Các con trai của A-ha-ron, là các tư tế, sẽ thổi kèn. Và đó là điều luật vĩnh viễn cho các ngươi và cho dòng dõi các ngươi.
9Khi các ngươi xuất trận, trong đất nước các ngươi, chống lại kẻ thù tấn công, các ngươi sẽ thổi kèn báo động, và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, sẽ nhớ đến các ngươi và cứu các ngươi khỏi quân thù. 10Trong ngày vui mừng của các ngươi, cũng như trong các đại lễ đã quy định, và các tuần trăng mới, các ngươi sẽ thổi kèn, khi dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an. Điều đó sẽ làm cho ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, nhớ đến các ngươi. Chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi."
Thứ tự lên đường
11Năm thứ hai, tháng hai, ngày hai mươi trong tháng, mây bốc lên khỏi Nhà Tạm Chứng Ước, 12và từ sa mạc Xi-nai, con cái Ít-ra-en lên đường theo thứ tự. Rồi cột mây đậu lại trong sa mạc Pa-ran.13Họ đã lên đường lần đầu tiên theo lệnh ĐỨC CHÚA truyền qua ông Mô-sê. 14Trước hết là cờ hiệu doanh trại con cháu Giu-đa lên đường theo các đoàn quân của họ, dưới quyền chỉ huy của ông Nác-sôn, con ông Am-mi-na-đáp. 15Đoàn quân chi tộc con cháu Ít-xa-kha dưới quyền chỉ huy của ông Nơ-than-ên, con ông Xu-a. 16Đoàn quân chi tộc con cháu Dơ-vu-lun dưới quyền chỉ huy của ông Ê-li-áp, con ông Khe-lôn.
17Khi tháo Nhà Tạm xuống, thì con cái Ghéc-sôn sẽ lên đường, và con cái Mơ-ra-ri sẽ khiêng Nhà Tạm.
18Cờ hiệu doanh trại Rưu-vên đã lên đường theo các đoàn quân của họ và dưới quyền chỉ huy của ông Ê-li-xua, con ông Sơ-đê-ua. 19Đoàn quân chi tộc con cháu Si-mê-ôn dưới quyền chỉ huy của ông Sơ-lu-mi-ên, con ông Xu-ri-sát-đai. 20Đoàn quân chi tộc con cháu Gát dưới quyền chỉ huy của ông En-gia-xáp, con ông Rơ-u-ên.
21Đến lượt các người Cơ-hát lên đường, mang theo vật dụng thánh, và Nhà Tạm phải được dựng lên trước khi họ tới.
22Tiếp đó là cờ hiệu doanh trại con cháu Ép-ra-im lên đường theo các đoàn quân của họ dưới quyền chỉ huy của ông Ê-li-sa-ma, con ông Am-mi-hút. 23Đoàn quân chi tộc con cháu Mơ-na-se dưới quyền chỉ huy của ông Gam-li-ên, con ông Pơ-đa-xua. 24Đoàn quân chi tộc Ben-gia-min dưới quyền chỉ huy của ông A-vi-đan, con ông Ghít-ô-ni.
25Sau cùng, làm hậu quân cho tất cả các doanh trại, cờ hiệu doanh trại con cháu Đan lên đường, theo các đoàn quân của họ dưới quyền chỉ huy của ông A-khi-e-de, con ông Am-mi-sát-đai. 26Đoàn quân chi tộc con cháu A-se dưới quyền chỉ huy của ông Pác-i-ên, con ông Oóc-ran. 27Đoàn quân chi tộc con cháu Náp-ta-li dưới quyền chỉ huy của ông A-khi-ra, con ông Ê-nan.
28Đó là thứ tự các đoàn quân con cái Ít-ra-en khi họ lên đường.
Ông Mô-sê đề nghị với ông Khô-váp
29Ông Mô-sê nói với nhạc phụ mình là ông Khô-váp, con ông Rơ-u-ên, người Ma-đi-an: "Chúng tôi đang trên đường đi tới nơi mà ĐỨC CHÚA đã hứa: "Ta sẽ ban đất ấy cho các ngươi. Mời cha đi với chúng tôi, chúng tôi sẽ trọng đãi cha, vì ĐỨC CHÚA đã hứa ban phúc lộc cho Ít-ra-en." 30Ông Khô-váp trả lời: "Không được, tôi phải về quê cha đất tổ tôi." 31Ông Mô-sê nói: "Xin cha đừng bỏ chúng tôi; bởi vì cha biết những nơi chúng tôi phải đóng trại trong sa mạc, cha sẽ là đôi mắt của chúng tôi. 32Và nếu cha cùng đi với chúng tôi, thì chính phúc lộc ĐỨC CHÚA ban cho chúng tôi, chúng tôi sẽ chia sẻ với cha."Cuộc lên đường
33Họ khởi hành từ núi của ĐỨC CHÚA, đi bộ ba ngày; Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA đi trước họ suốt ba ngày, để tìm chỗ cho họ đóng trại.34Và mây của ĐỨC CHÚA che phủ họ ban ngày, lúc họ nhổ trại lên đường.
35Khi Hòm Bia khởi hành, ông Mô-sê lên tiếng:"Lạy ĐỨC CHÚA, xin đứng lên cho địch thù Ngài tán loạn,và cho kẻ ghét Ngài phải chạy trốn Thánh Nhan! "
36Và lúc Hòm Bia dừng lại, ông nói:"Lạy ĐỨC CHÚA, xin dừng lại,ngự giữa trăm họ Ít-ra-en! "
V. NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG TRONG SA MẠC
Táp-ê-ra
1Thế rồi dân bắt đầu kêu ca thấu tai ĐỨC CHÚA vì những khổ cực của họ, và ĐỨC CHÚA đã nghe được. Cơn thịnh nộ của Người bừng lên và lửa của ĐỨC CHÚA bốc cháy nơi họ ở và thiêu huỷ đầu trại. 2Dân liền kêu cứu ông Mô-sê, ông Mô-sê chuyển cầu lên ĐỨC CHÚA, và lửa đã tắt. 3Người ta đặt tên cho nơi đó là Táp-ê-ra, vì lửa của ĐỨC CHÚA đã bốc cháy nơi họ ở.Kíp-rốt Ha Ta-a-va. Dân ta thán.4Đám dân ô hợp sống giữa dân Ít-ra-en bắt đầu thèm ăn, và cả con cái Ít-ra-en cũng khóc lóc mà nói: "Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? 5Nhớ thuở nào ta ăn cá bên Ai-cập mà không phải trả tiền, rồi nào dưa gang, dưa bở, nào hẹ, nào hành, nào tỏi. 6Còn bây giờ đời ta tàn rồi; mọi thứ đó hết sạch, chỉ còn thấy man-na thôi."
7Man-na như hạt ngò và trông nó như nhựa hương. 8Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh, và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên dầu. 9Đêm về sương rơi trên doanh trại, thì man-na cũng rơi xuống.
Ông Mô-sê can thiệp
10Ông Mô-sê nghe thấy dân tụm năm tụm bảy theo thị tộc mà kêu khóc tại cửa lều của mình. Còn ĐỨC CHÚA thì bừng bừng nổi giận. Ông lấy làm khổ tâm 11và thưa với ĐỨC CHÚA: "Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? 12Có phải con đã cưu mang tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con: "Hãy bồng nó vào lòng, như vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất Ta đã thề hứa với cha ông chúng? 13Con lấy đâu ra thịt cho cả dân này ăn, khi chúng khóc lóc đòi con: "Cho chúng tôi thịt để chúng tôi ăn? 14Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. 15Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn -ấy là nếu con đẹp lòng Ngài! Đừng để con thấy mình phải khổ nữa! "ĐỨC CHÚA trả lời
16ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Hãy tập họp lại cho Ta bảy mươi người trong số kỳ mục Ít-ra-en, những kẻ ngươi biết là kỳ mục và ký lục trong dân. Ngươi sẽ đem chúng đến Lều Hội Ngộ, để chúng đứng đó với ngươi. 17Ta sẽ xuống đó nói chuyện với ngươi. Ta sẽ lấy một phần Thần Khí đang ngự trên ngươi mà đặt trên chúng, chúng sẽ cùng với ngươi gánh vác dân này, và ngươi sẽ không còn phải vác một mình nữa."18Ngươi hãy nói với dân: "Anh em hãy thanh tẩy mình để chuẩn bị cho ngày mai và anh em sẽ được ăn thịt. Phải, anh em đã kêu khóc thấu tai ĐỨC CHÚA rằng: "Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? Bên Ai-cập, chúng ta sướng biết mấy! ĐỨC CHÚA sẽ ban thịt cho anh em, và anh em sẽ được ăn. 19Anh em sẽ ăn, không phải một ngày, hai ngày, năm mười ngày, hay hai mươi ngày mà thôi, 20nhưng suốt cả tháng, cho đến khi thịt lòi ra lỗ mũi làm anh em phát ngấy, vì anh em đã khinh thường ĐỨC CHÚA, Đấng ngự giữa anh em, và đã kêu khóc trước nhan Người rằng: Chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? "
21Ông Mô-sê lại nói: "Con ở giữa một dân có đến sáu trăm ngàn bộ binh, mà ĐỨC CHÚA lại bảo: Ta sẽ ban thịt cho chúng, và chúng sẽ ăn suốt cả tháng. 22Dù có giết chiên giết bò, liệu có đủ cho họ không? Dù có bắt hết cá dưới biển, liệu có đủ cho họ không? " 23ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "ĐỨC CHÚA mà chịu bó tay sao? Bây giờ ngươi sẽ thấy lời Ta phán có đúng hay không."
ĐỨC CHÚA ban Thần Khí
24Ông Mô-sê ra nói lại với dân những lời của ĐỨC CHÚA. Ông tập họp bảy mươi người trong số kỳ mục của dân và đặt họ đứng chung quanh Lều. 25ĐỨC CHÚA ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Mô-sê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa.26Bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. 27Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê rằng: "Ông En-đát và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại! " 28Ông Giô-suê con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Mô-sê: "Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ! " 29Nhưng ông Mô-sê trả lời: "Anh ghen dùm tôi à? Phải chi ĐỨC CHÚA ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ! " Vì ĐỨC CHÚA đã ban Thần Khí của Người trên họ. 30Ông Mô-sê đã vào trại cùng với các kỳ mục Ít-ra-en.
Chim cút
31Một luồng gió do ĐỨC CHÚA khơi dậy đã lùa chim cút từ phía biển tới, và thổi chúng dạt xuống trại thành một đường dài đi một ngày mới hết, ở bốn phía chung quanh trại, dày tới một thước trên mặt đất. 32Dân bận rộn lượm chim cút suốt ngày suốt đêm ấy và cả ngày hôm sau; người lượm ít nhất cũng được hai trăm thùng, và họ đem phơi chung quanh trại. 33Thịt còn đang ở giữa hai hàm răng, chưa kịp nhai thì cơn thịnh nộ của ĐỨC CHÚA đã bừng lên trút xuống dân và ĐỨC CHÚA đã đánh phạt dân dữ dội.34Và người ta đã đặt tên cho nơi đó là Kíp-rốt Ha Ta-a-va, vì ở đó họ đã chôn đám dân thèm ăn.
35Từ Kíp-rốt Ha Ta-a-va, dân chúng đã nhổ trại lên đường đi Kha-xê-rốt và ở lại đó.
Bà Mi-ri-am và ông A-ha-ron phản đối ông Mô-sê
1Bà Mi-ri-am và ông A-ha-ron phản đối ông Mô-sê về người đàn bà xứ Cút mà ông đã lấy, vì ông đã lấy một người đàn bà xứ Cút làm vợ. 2Họ nói: "ĐỨC CHÚA chỉ phán với một mình Mô-sê sao? Người đã chẳng phán với cả chúng ta nữa ư? " Và ĐỨC CHÚA nghe được. 3Ông Mô-sê là người hiền lành nhất đời.Thiên Chúa trả lời
4Đột nhiên ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê, ông A-ha-ron và bà Mi-ri-am: "Cả ba hãy đi ra Lều Hội Ngộ! " Và ba người đã ra. 5ĐỨC CHÚA ngự xuống giữa đám mây và dừng lại ở cửa Lều. Người gọi ông A-ha-ron và bà Mi-ri-am, và hai người đi ra. 6Người phán: "Hãy nghe Ta nói đây!Nếu trong các ngươi có ai là ngôn sứ,thì Ta, ĐỨC CHÚA, Ta sẽ tỏ mình ra cho nó trong thị kiến,hoặc sẽ phán với nó trong giấc mộng.7Nhưng với Mô-sê tôi tớ Ta thì khác:tất cả nhà Ta, Ta đã trao cho nó.
8Ta nói với nó trực diện, nhãn tiền, chứ không nói bí ẩn,và hình dáng ĐỨC CHÚA, nó được ngắm nhìn.Vậy tại sao các ngươi không sợ nói động đến Mô-sê, tôi tớ Ta? "
9ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với họ mà bỏ đi. 10Khi mây bốc lên khỏi Lều, thì bà Mi-ri-am bị cùi, mốc thếch như tuyết; ông A-ha-ron quay nhìn bà Mi-ri-am, thì kìa bà đã bị cùi.
Lời chuyển cầu của ông A-ha-ron và ông Mô-sê
11Ông A-ha-ron nói với ông Mô-sê: "Lỗi tại tôi, thưa ngài, nhưng xin ngài đừng kết tội chúng tôi; chúng tôi đã dại dột mà phạm lỗi và đáng tội. 12Xin đừng để cho cô ấy nên như đứa chết yểu, vừa lọt lòng mẹ đã bị ăn mòn mất một nửa phần thịt mình rồi."13Ông Mô-sê kêu cầu lên ĐỨC CHÚA rằng: "Ôi, lạy Chúa, xin chữa lành cô ấy! " 14ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Nếu cha nó phỉ nhổ vào mặt nó, thì nó không phải nhục nhã ê chề bảy ngày liền sao? Nó vẫn phải biệt cư ở ngoài trại bảy ngày rồi mới được vào lại."
15Vậy bà Mi-ri-am đã bị biệt cư ở ngoài trại bảy ngày liền, trong khi đó dân chúng không lên đường cho tới khi bà Mi-ri-am được vào lại. 16Sau đó dân chúng lên đường rời Kha-xê-rốt và đóng trại trong sa mạc Pa-ran.
Do thám đất Ca-na-an (Đnl 1:19-24)
1ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 2"Ngươi hãy sai người đi do thám đất Ca-na-an, đất mà Ta sẽ ban cho con cái Ít-ra-en. Các ngươi sẽ sai đi mỗi chi tộc một người và tất cả phải là kỳ mục trong dân."3Vậy từ sa mạc Pa-ran, ông Mô-sê đã sai họ đi, theo lệnh ĐỨC CHÚA truyền. Tất cả họ đều là những người đứng đầu trong con cái Ít-ra-en. 4Đây là danh sách họ:Thuộc chi tộc Rưu-vên, có ông Sam-mu-a, con ông Dắc-cua.
5Thuộc chi tộc Si-mê-ôn, có ông Sa-phát, con ông Khô-ri.
6Thuộc chi tộc Giu-đa, có ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne.
7Thuộc chi tộc Ít-xa-kha, có ông Gích-an, con ông Giô-xép.
8Thuộc chi tộc Ép-ra-im, có ông Hô-sê-a, con ông Nun.
9Thuộc chi tộc Ben-gia-min, có ông Pan-ti, con ông Ra-phu.
10Thuộc chi tộc Dơ-vu-lun, có ông Gát-đi-en, con ông Xô-đi.
11Thuộc chi tộc Giu-se, ngành Mơ-na-se, có ông Gát-đi, con ông Xu-xi.
12Thuộc chi tộc Đan, có ông Am-mi-ên, con ông Gơ-ma-li.
13Thuộc chi tộc A-se, có ông Xơ-tua, con ông Mi-kha-ên.
14Thuộc chi tộc Náp-ta-li, có ông Nác-bi, con ông Vóp-xi.
15Thuộc chi tộc Gát, có ông Gơ-u-ên, con ông Ma-khi.
16Đó là tên những người ông Mô-sê sai đi do thám đất. Rồi ông Mô-sê đặt tên cho Hô-sê-a, con ông Nun, là Giô-suê.
17Ông Mô-sê sai họ đi do thám đất Ca-na-an. Ông bảo họ: "Anh em hãy qua miền Ne-ghép mà lên, lên miền núi. 18Anh em sẽ xem đất, xem nó thế nào, dân ở đó mạnh hay yếu, ít hay nhiều, 19đất họ ở tốt hay xấu, thành thị của họ là lều trại hay đồn luỹ, 20đất đai màu mỡ hay cằn cỗi, có cây cối hay không. Anh em hãy can đảm, và lấy ít hoa trái miền đó đem về."
21Họ đi lên và do thám đất, từ sa mạc Xin đến Rơ-khốp, trên đường vào Cửa Ải Kha-mát. 22Họ qua miền Ne-ghép đi lên và tới tận Khép-rôn, ở đó có A-khi-man, Sê-sai và Tan-mai là con cháu của A-nác. Khép-rôn đã được xây bảy năm trước Xô-an bên Ai-cập. 23Họ vào đến thung lũng Ét-côn, ở đó họ chặt một nhành nho và một chùm nho, rồi hai người dùng sào mà khiêng, họ cũng lấy cả lựu và vả. 24Người ta gọi nơi ấy là thung lũng Ét-côn, vì chùm nho mà con cái Ít-ra-en đã hái ở đó.
Báo cáo của đội do thám (Đnl 1:25-28)
25Sau bốn mươi ngày do thám đất, họ trở về. 26Họ đến gặp ông Mô-sê, ông A-ha-ron và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, tại Ca-đê trong sa mạc Pa-ran. Họ báo cáo với hai ông và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, và cho những người đó xem hoa trái miền ấy.27Họ thuật lại với ông Mô-sê rằng: "Chúng tôi đã vào miền đất ông sai chúng tôi đến. Đúng là miền đất tràn trề sữa và mật, và đây là hoa trái miền ấy. 28Thế nhưng dân cư miền ấy thì mạnh, thành thị lại kiên cố và rộng lớn lắm; ở đó chúng tôi còn thấy cả con cháu A-nác. 29Có người A-ma-lếch ở miền Ne-ghép, người Khết, người Giơ-vút và người E-mô-ri ở miền núi, còn người Ca-na-an thì ở bờ biển và dọc sông Gio-đan."
30Bấy giờ ông Ca-lếp truyền cho dân đang phản đối ông Mô-sê phải im lặng, ông nói: "Ta cứ lên chiếm miền ấy, vì chắc chắn ta có thể thắng được." 31Những người đã cùng lên với ông đáp lại: "Ta không thể lên đánh dân ấy, vì họ mạnh hơn ta." 32Trước mặt con cái Ít-ra-en, họ bắt đầu chê bai miền đất họ đã do thám, họ nói: "Miền đất chúng ta đã đi qua để do thám là đất nuốt những người ở đó, và tất cả những người chúng tôi thấy ở đó đều là những người cao lớn. 33Ở đó chúng tôi trông thấy những người khổng lồ, con cháu của A-nác thuộc giống người khổng lồ. Chúng tôi thấy mình chỉ như châu chấu, và họ cũng coi chúng tôi như vậy."
Ít-ra-en nổi loạn
1Toàn thể cộng đồng lớn tiếng kêu la, dân chúng khóc lóc cả đêm ấy. 2Tất cả con cái Ít-ra-en đều kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron, toàn thể cộng đồng nói với các ông: "Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Ai-cập, hoặc phải chi chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! 3Sao ĐỨC CHÚA lại đem chúng tôi vào đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt? Chúng tôi trở về Ai-cập có tốt hơn không? " 4Họ bảo nhau: "Chúng ta hãy đặt lên một người cầm đầu và trở về Ai-cập."5Trước mặt toàn thể đại hội của cộng đồng con cái Ít-ra-en, ông Mô-sê và ông A-ha-ron sấp mặt xuống đất. 6Ông Giô-suê, con ông Nun, và ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, là những người đã tham dự cuộc do thám đất, xé áo mình ra 7và nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en: "Miền đất chúng tôi đã đi qua để do thám là một đất tốt thật là tốt! 8Nếu ĐỨC CHÚA thương ta, Người sẽ đưa ta vào đất ấy và ban đất ấy cho ta, một đất tràn trề sữa và mật. 9Vậy anh em đừng nổi loạn chống ĐỨC CHÚA, và đừng sợ dân đất ấy! Chúng ta sẽ nuốt chửng chúng. Thần hộ mệnh chúng đã lìa xa chúng, còn ĐỨC CHÚA thì ở với ta. Đừng sợ chúng! "
Cơn thịnh nộ của ĐỨC CHÚA và lời chuyển cầu của ông Mô-sê
10Cả cộng đồng đang bàn chuyện ném đá các ông, thì vinh quang ĐỨC CHÚA xuất hiện trong Lều Hội Ngộ trước mắt toàn thể con cái Ít-ra-en. 11ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Dân này còn khinh thị Ta đến bao giờ nữa? Cho đến bao giờ, chúng không chịu tin vào Ta, mặc dầu Ta đã làm bấy nhiêu dấu lạ ở giữa chúng? 12Ta sẽ dùng ôn dịch mà đánh phạt chúng, sẽ không cho chúng hưởng gia nghiệp, rồi Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc lớn và mạnh hơn chúng."13Ông Mô-sê thưa với ĐỨC CHÚA: "Người Ai-cập đã nghe biết rằng Ngài đã dùng sức mạnh của Ngài mà đưa dân này ra khỏi đất chúng. 14Và chúng đã kể lại việc đó cho cư dân đất này. Dân đất này đã nghe biết rằng chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài ở giữa dân này, chính Ngài, ĐỨC CHÚA, Ngài cho họ được thấy Ngài tận mắt, rằng đám mây của Ngài dừng trên họ, và Ngài đi trước họ ban ngày trong cột mây và ban đêm trong cột lửa. 15Thế mà ĐỨC CHÚA lại muốn giết cả dân này như giết một người! Các nước đã từng nghe danh tiếng Ngài sẽ nói: 16"Chính bởi vì ĐỨC CHÚA đã không thể đem dân ấy vào đất Người đã thề ban cho chúng, mà Người đã hạ sát chúng trong sa mạc. 17Vậy giờ đây, xin Chúa Thượng của con biểu dương sức mạnh, như Ngài đã phán: 18"ĐỨC CHÚA chậm giận và giàu ân nghĩa, chịu đựng lỗi lầm và tội ác, nhưng không dung tha điều gì; phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông. 19Vậy xin Ngài tha thứ lỗi lầm của dân này theo lượng cả ân nghĩa của Ngài, như Ngài đã từng chịu đựng dân này từ Ai-cập cho đến đây."
Tha thứ và trừng phạt
20ĐỨC CHÚA đáp: "Ta tha thứ như lời ngươi xin. 21Tuy nhiên, Ta lấy sự sống của Ta, lấy vinh quang của Ta là ĐỨC CHÚA, vinh quang tràn đầy cõi đất, mà thề: 22Không một ai trong những người đã thấy vinh quang của Ta và những dấu lạ Ta đã làm bên Ai-cập và trong sa mạc, nhưng đã thách thức Ta cả mười lần và đã không chịu nghe theo tiếng Ta, 23không một ai trong những người ấy sẽ được thấy miền đất Ta đã thề hứa với cha ông chúng, tất cả những ai khinh thị Ta sẽ không được thấy đất ấy. 24Nhưng tôi trung của Ta là Ca-lếp, vì được một thần khí khác thúc đẩy, và đã một lòng theo Ta, thì Ta sẽ đưa nó vào đất nó đã đi tới, và dòng dõi nó sẽ chiếm hữu đất ấy. 25Vì người A-ma-lếch và người Ca-na-an ở vùng đồng bằng, nên ngày mai các ngươi hãy quay trở lại, và theo hướng Biển Sậy mà vào sa mạc."26ĐỨC CHÚA lại phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: 27"Cho tới bao giờ cái cộng đồng hư đốn này cứ tiếp tục lẩm bẩm kêu trách Ta? Ta đã nghe thấy toàn những lời cằn nhằn, đám con cái Ít-ra-en này cứ lẩm bẩm chống Ta. 28Ngươi hãy nói với chúng: Ta thề -sấm của ĐỨC CHÚA- Ta sẽ xử với các ngươi như lời các ngươi kêu thấu tai Ta. 29Trong sa mạc này, thây các ngươi sẽ ngã gục: trong các ngươi, tất cả những người đã được kiểm tra đăng ký, từ hai mươi tuổi trở lên, mà đã cằn nhằn chống Ta, 30không một ai sẽ được vào đất mà Ta đã giơ tay thề sẽ đưa các ngươi vào cư ngụ, ngoại trừ Ca-lếp, con của Giơ-phun-ne, và Giô-suê, con của Nun. 31Còn các trẻ con mà các ngươi cho rằng sẽ bị bắt làm chiến lợi phẩm, thì Ta sẽ đưa chúng vào, và chúng sẽ được biết đất các ngươi đã chê bỏ. 32Còn các ngươi, thây các ngươi sẽ ngã gục trong sa mạc này. 33Và con cái các ngươi sẽ đi lang thang trong sa mạc bốn mươi năm, chúng sẽ mang lấy tội phản bội của các ngươi cho tới khi tất cả các ngươi thành thây ma trong sa mạc. 34Theo số ngày các ngươi đã đi do thám đất -bốn mươi ngày- mỗi ngày tính là một năm, các ngươi sẽ phải gánh chịu tội ác của các ngươi bốn mươi năm, và các ngươi sẽ biết Ta trừng phạt những kẻ bất tuân như thế nào.
35Ta, ĐỨC CHÚA, Ta đã phán; Ta quyết sẽ thi hành như thế cho toàn thể cộng đồng hư đốn này đã cấu kết với nhau chống lại Ta. Trong sa mạc này chúng sẽ bị tiêu diệt và sẽ chết hết."
36Những người đã được ông Mô-sê sai đi do thám đất, lúc trở về, đã làm cho cả cộng đồng lẩm bẩm kêu trách ông, vì những lời xuyên tạc về đất ấy, 37những người đó đã bị phạt chết ngay trước nhan ĐỨC CHÚA, vì manh tâm xuyên tạc về đất ấy. 38Chỉ có Giô-suê, con ông Nun, và Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, trong số các người đi do thám đất, là còn sống.
Dân Ít-ra-en thất bại (Đnl 1:41-46)
39Khi ông Mô-sê thuật lại các những lời ấy cho toàn thể con cái Ít-ra-en, thì dân chúng đã kêu khóc thảm thiết. 40Thế rồi họ dậy sớm, kéo nhau lên đỉnh núi, và nói: "Này chúng tôi lên nơi mà ĐỨC CHÚA đã nói, vì chúng tôi đã phạm tội." 41Ông Mô-sê trả lời: "Sao anh em lại trái lệnh ĐỨC CHÚA như thế? Việc này sẽ không thành công. 42Đừng lên, ĐỨC CHÚA không ở với anh em đâu: anh em sẽ bị quân thù đánh bại. 43Phải, quân A-ma-lếch và quân Ca-na-an sẽ chặn đánh anh em ở đó, và anh em sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, bởi vì anh em đã bỏ không theo ĐỨC CHÚA, và ĐỨC CHÚA không ở với anh em nữa." 44Họ khăng khăng kéo lên đỉnh núi, trong khi Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA cũng như ông Mô-sê không rời khỏi trại. 45Quân A-ma-lếch và quân Ca-na-an đóng trên núi ấy đã tràn xuống tấn công và đánh đuổi họ tan tành cho tới Khoóc-ma.VI. LUẬT LỆ VỀ HIẾN TẾ. QUYỀN HÀNH CỦA CÁC TƯ TẾ VÀ CÁC THẦY LÊ-VI.
Của dâng cúng kèm theo hiến tế
1ĐỨC CHÚA phán bảo ông Mô-sê: 2"Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng rằng: Khi các ngươi đã vào cư ngụ trong đất mà Ta sẽ ban cho các ngươi, 3và khi các ngươi dâng bò bê hay chiên cừu lên ĐỨC CHÚA làm lễ hoả tế, -bất kỳ lễ toàn thiêu hay lễ hy sinh- hoặc để giữ trọn một lời khấn, hoặc để dâng một của cúng tự nguyện, hoặc để cử hành các đại lễ theo luật định, ngõ hầu làm vui lòng ĐỨC CHÚA vì hương thơm, 4thì kẻ tiến dâng lễ còn phải tiến dâng lên ĐỨC CHÚA lễ phẩm nữa, là bốn lít rưỡi tinh bột nhào với hai lít dầu ô-liu; 5còn rượu tế thì cứ một con chiên con phải dâng hai lít, để làm lễ toàn thiêu hoặc lễ hy sinh. 6Nếu là chiên đực, thì ngươi sẽ dâng lễ vật phụ là chín lít tinh bột nhào với hai lít rưỡi dầu ô-liu, 7và rượu tế thì dâng hai lít rưỡi như hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA. 8Nếu ngươi dâng một con bò mộng làm lễ toàn thiêu hay lễ hy sinh, để giữ trọn một lời khấn, hoặc để làm lễ kỳ an dâng ĐỨC CHÚA, 9thì cùng với con bò mộng, ngươi sẽ còn phải dâng một lễ phẩm nữa, là mười ba lít rưỡi tinh bột nhào với bốn lít dầu ô-liu, 10còn rượu tế thì ngươi sẽ dâng bốn lít, như hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA. 11Mỗi con bò mộng hoặc chiên đực, mỗi con cừu hay dê trong đàn ngươi dâng, thì đều phải làm như vậy. 12Mỗi lần dâng, ngươi đều phải làm như thế, tuỳ theo số lượng nhiều hay ít.13Mọi người bản xứ đều phải làm như thế, khi dâng lễ hoả tế như hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA. 14Nếu có ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi, hay con cháu các ngươi, mà dâng lễ hoả tế như hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA, thì nó cũng phải làm như các ngươi. 15Trong đại hội, chỉ có một điều luật duy nhất cho các ngươi và cho ngoại kiều sống giữa các ngươi, điều luật vĩnh viễn trước mặt ĐỨC CHÚA cho con cháu các ngươi cũng như cho các ngươi và cho ngoại kiều. 16Một luật pháp và một quyết định cho cả các ngươi lẫn ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi."
Bánh đầu mùa
17ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 18"Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng rằng: Khi các ngươi tới đất mà Ta sẽ dẫn các ngươi vào, 19các ngươi ăn thổ sản của đất đó, thì các ngươi phải dành ra trước phần trích dâng để kính ĐỨC CHÚA như sau: 20từ bột tốt nhất của các ngươi, các ngươi sẽ dâng một chiếc bánh làm phần trích dâng; như ngoài sân lúa người ta dành ra trước phần trích dâng thế nào, thì các ngươi cũng phải làm như vậy; 21nghĩa là cho đến muôn đời các ngươi sẽ dâng ĐỨC CHÚA phần trích dâng từ bột tốt nhất của các ngươi."Tẩy xoá những lầm lỗi vì vô ý
22"Nếu vì vô ý các ngươi không giữ một điều nào trong tất cả các điều răn mà ĐỨC CHÚA đã phán bảo qua ông Mô-sê trên đây, 23tất cả những gì ĐỨC CHÚA đã truyền cho các ngươi qua Mô-sê, từ ngày ĐỨC CHÚA truyền dạy cho cả con cháu các ngươi về sau nữa, 24nếu cộng đồng lỗi lầm vì vô ý, thì toàn thể cộng đồng phải dâng một con bò mộng làm lễ toàn thiêu, như hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA, cùng với lễ phẩm và rượu tế theo luật định, lại phải dâng một con dê đực vì lỗi đã phạm. 25Tư tế sẽ làm nghi thức xá tội trên toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, và chúng sẽ được tha thứ, bởi đó là một tội phạm vì vô ý, và chúng đã dâng lên ĐỨC CHÚA lễ tiến hoả tế cùng với lễ tạ tội lên ĐỨC CHÚA, bởi phạm tội vì vô ý. 26Như thế toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en cũng như ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi đều được tha thứ, bởi toàn dân đã phạm tội vì vô ý.27Nếu một cá nhân phạm tội vì vô ý, thì nó sẽ dâng một con dê cái một tuổi làm lễ tạ tội. 28Tư tế sẽ làm nghi thức xá tội trên người đã phạm tội vì vô ý, bởi nó vô ý trước nhan ĐỨC CHÚA. Khi cử hành nghi thức xá tội như thế, thì người ấy sẽ được tha thứ. 29Đối với người bản xứ trong con cái Ít-ra-en cũng như đối với ngoại kiều sinh sống giữa chúng, các ngươi chỉ có một điều luật phải thi hành trong trường hợp phạm tội vì vô ý.
30Nhưng kẻ nào hành động cố tình, dù là người bản xứ hay ngoại kiều, thì nó xúc phạm đến chính ĐỨC CHÚA. Con người ấy sẽ bị tiễu trừ khỏi đồng bào của nó, 31vì nó đã khinh khi lời ĐỨC CHÚA và phế bỏ lệnh Người truyền. Con người ấy phải bị tiêu diệt. Nó phải mang lấy tội ác của nó."
Vi phạm ngày sa-bát
32Khi con cái Ít-ra-en còn ở trong sa mạc, thì người ta bắt được một người đang lượm củi ngày sa-bát. 33Những người bắt được kẻ đang lượm củi liền điệu y tới ông Mô-sê, ông A-ha-ron và toàn thể cộng đồng. 34Họ nhốt y lại vì chưa có quyết định phải xử với y như thế nào. 35ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Con người ấy sẽ phải chết; toàn thể cộng đồng sẽ ném đá nó bên ngoài doanh trại." 36Theo lệnh ĐỨC CHÚA truyền cho ông Mô-sê, toàn thể cộng đồng đã đưa y ra khỏi trại, ném đá y và y đã chết.Tua áo
37ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en 38và bảo chúng phải làm tua khâu vào tà áo của chúng, qua mọi thế hệ, và cột lên tua áo đó một sợi dây đỏ tía. 39Vậy các ngươi sẽ mang tua áo, và khi nhìn thấy nó, các ngươi sẽ nhớ đến mọi mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA mà thi hành, chứ không theo con tim và đôi mắt các ngươi mà đi làm điếm.40Như thế các ngươi sẽ nhớ và thi hành tất cả các mệnh lệnh Ta truyền như những người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa các ngươi. 41Chính Ta, ĐỨC CHÚA, là Thiên Chúa các ngươi, Ta đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập để làm Thiên Chúa của các ngươi, Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa các ngươi.
Cô-rắc, Đa-than và A-vi-ram nổi loạn
1Cô-rắc, con ông Gít-ha, cháu ông Cơ-hát thuộc chi tộc Lê-vi, đã lôi kéo những người thuộc chi tộc Rưu-vên, là Đa-than và A-vi-ram, con của ông Ê-li-áp, với Ôn, con ông Pe-lét. 2Họ nổi lên chống ông Mô-sê, và cùng với họ có hai trăm năm mươi người trong số con cái Ít-ra-en, là những người lãnh đạo cộng đồng, là thành viên hội đồng và là những nhân vật tên tuổi. 3Họ tụ tập trước mặt ông Mô-sê và ông A-ha-ron, và nói với hai ông: "Các ông quá lắm rồi! Toàn thể cộng đồng đều là thánh, và ĐỨC CHÚA ngự giữa họ. Vậy tại sao các ông lại đè đầu đè cổ cộng đồng của ĐỨC CHÚA? "4Nghe thấy vậy, ông Mô-sê sấp mặt xuống đất. 5Ông nói với Cô-rắc và đồng bọn rằng: "Sáng mai ĐỨC CHÚA sẽ cho biết ai thuộc về Người, ai được thánh hiến và được Người cho ở gần; kẻ Người chọn thì Người sẽ cho ở gần. 6Các anh phải làm thế này: Anh Cô-rắc và đồng bọn của anh hãy lấy bình hương, 7thắp lửa vào bình hương, và ngày mai đổ hương lên trên, trước nhan ĐỨC CHÚA; và kẻ nào ĐỨC CHÚA chọn thì người đó được thánh hiến. Này con cháu Lê-vi, các anh quá quắt lắm đó! "
8Ông Mô-sê nói với Cô-rắc: "Này con cháu Lê-vi, nghe đây! 9Thiên Chúa của Ít-ra-en đã biệt đãi các anh giữa cộng đồng Ít-ra-en, đưa các anh đến gần Chúa, để các anh phục dịch Nhà Tạm của ĐỨC CHÚA và túc trực trước cộng đồng mà thi hành tác vụ thay cho họ: như thế, các anh còn cho là quá ít sao? 10Người đã đưa anh và cùng với anh tất cả các người Lê-vi anh em của anh, tới gần Người, mà các anh còn đòi làm tư tế nữa! 11Thế là chống ĐỨC CHÚA, anh cùng với cả bọn anh mới toa rập với nhau, chứ ông A-ha-ron là gì mà các anh cằn nhằn ông ấy? "
12Ông Mô-sê sai đi gọi Đa-than và A-vi-ram, con ông Ê-li-áp, nhưng họ trả lời: "Chúng tôi không đến! 13Ông đã đưa chúng tôi ra khỏi đất tràn trề sữa và mật, để chúng tôi phải chết trong sa mạc, như thế là ít hay sao mà ông lại còn tự đặt mình làm thủ lãnh chúng tôi nữa? 14Thật chẳng phải là ông đã dẫn chúng tôi vào một đất tràn trề sữa và mật, ông cũng chẳng cho chúng tôi đồng ruộng và vườn nho làm sở hữu. Ông tưởng móc mắt được những người này cho họ khỏi thấy sao? Chúng tôi không đến! " 15Ông Mô-sê bừng bừng nổi giận, và thưa với ĐỨC CHÚA: "Xin Ngài đừng chiếu cố lễ phẩm chúng dâng! Dù một con lừa của chúng, con cũng đã không hề lấy, và con cũng chẳng làm thiệt hại một người nào trong bọn chúng."
Hình phạt
16Ông Mô-sê nói với ông Cô-rắc: "Anh và tất cả đồng bọn của anh, ngày mai hãy đến trước nhan ĐỨC CHÚA, anh và họ cùng với ông A-ha-ron. 17Mỗi người cầm bình hương của mình, đổ hương vào, rồi ai nấy hãy đưa bình hương tới nhan ĐỨC CHÚA, tất cả là hai trăm năm mươi chiếc. Cả anh và ông A-ha-ron nữa, mỗi người hãy mang bình hương của mình." 18Mỗi người cầm bình hương, thắp lửa vào bình và đổ hương lên. Rồi họ đứng ở cửa Lều Hội Ngộ cùng với ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 19Cô-rắc đã triệu tập toàn thể cộng đồng trước mặt các ông, ở cửa Lều Hội Ngộ. Và vinh quang của ĐỨC CHÚA đã xuất hiện trước toàn thể cộng đồng.20ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 21"Các ngươi hãy rời xa cộng đồng này, vì Ta sẽ huỷ diệt nó trong giây lát. 22Các ông liền sấp mặt xuống đất và kêu: "Lạy Chúa là Thiên Chúa ban sinh khí cho mọi xác phàm, chỉ có một người phạm tội mà Chúa nổi giận với cả cộng đồng sao? " 23ĐỨC CHÚA phán bảo ông Mô-sê rằng: 24"Ngươi hãy nói với cộng đồng: "Hãy tránh xa khu vực quanh nhà của Cô-rắc, Đa-than và A-vi-ram! "
25Bấy giờ ông Mô-sê đứng dậy đi về phía Đa-than và A-vi-ram, theo sau ông là các kỳ mục Ít-ra-en. 26Ông nói với cộng đồng: "Này, chớ tới gần lều của những con người hư đốn ấy, và đừng đụng tới tất cả những gì của họ, kẻo vì liên luỵ mà anh em cũng bị huỷ diệt với tất cả tội lỗi của họ." 27Và người ta rời xa khu vực quanh nhà của Cô-rắc, Đa-than và A-vi-ram.
28Ông Mô-sê nói: "Cứ thế này mà anh em biết là ĐỨC CHÚA đã sai tôi làm những công việc đó, chứ không phải tôi tự ý làm: 29Nếu những người này chết bình thường như mọi người, nghĩa là số phận chung của mọi người cũng là số phận của họ, thì đúng là ĐỨC CHÚA đã không sai tôi. 30Còn nếu ĐỨC CHÚA làm điều khác thường này là đất mở họng ra nuốt tươi các người ấy cùng với tất cả những gì của họ, nghĩa là họ bị chôn sống dưới âm phủ, thì anh em sẽ biết rằng những người đó đã khinh dể ĐỨC CHÚA."
31Ông vừa nói những lời ấy xong, đất dưới chân họ liền rẽ ra, 32mở họng nuốt chửng họ, nhà cửa của họ, mọi người nhà của Cô-rắc cũng như tất cả tài sản.
33Những người ấy cùng với tất cả những gì của họ đã bị chôn sống dưới âm phủ, và đất đã khép lại vùi lấp họ; họ biến mất khỏi công hội. 34Tất cả những người Ít-ra-en đứng chung quanh nghe tiếng họ kêu la thì trốn chạy, và nói: "Coi chừng đất nuốt cả chúng ta bây giờ! "
35ĐỨC CHÚA cho lửa ngốn trọn hai trăm năm mươi người đã dâng hương.
Bình hương
1ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 2"Ngươi hãy nói với E-la-da, con của tư tế A-ha-ron, phải cất các bình hương trên đám than hồng đi và hất lửa ấy ra xa. 3Dù những bình hương đó là của những kẻ đã phạm tội mà phải chết, nhưng chúng đã được thánh hiến, nên các ngươi hãy dát thành những tấm đồng mỏng phủ lên bàn thờ. Quả vậy, các kẻ ấy đã tiến dâng trước nhan ĐỨC CHÚA, và đã thánh hiến chúng; chúng sẽ nên dấu hiệu để cảnh giác con cái Ít-ra-en."4Tư tế E-la-da lấy các bình hương bằng đồng mà những người chết cháy đã tiến dâng, và dát thành những tấm mỏng phủ lên bàn thờ. 5Chúng sẽ nhắc cho con cái Ít-ra-en nhớ rằng không một ai ngoài dòng dõi ông A-ha-ron tới gần thắp hương trước nhan ĐỨC CHÚA, mà không bị chung một số phận với Cô-rắc và đồng bọn của y, như ĐỨC CHÚA đã phán qua Mô-sê.
Ông A-ha-ron chuyển cầu
6Hôm sau toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: "Chính các ông đã giết dân của ĐỨC CHÚA." 7Và khi cộng đồng tụ tập trước mặt ông Mô-sê và ông A-ha-ron, thì họ quay về phía Lều Hội Ngộ. Và kìa, mây bao phủ Lều và vinh quang ĐỨC CHÚA xuất hiện. 8Bấy giờ ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến trước Lều Hội Ngộ.9ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 10"Các ngươi hãy rời xa cộng đồng này, vì Ta sẽ huỷ diệt nó trong giây lát." Các ông liền sấp mặt xuống đất. 11Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Ông hãy cầm bình hương, lấy lửa trên bàn thờ thắp vào, đổ hương lên, rồi lập tức đến với cộng đồng làm nghi thức xá tội cho họ, vì ĐỨC CHÚA đã nổi cơn thịnh nộ và tai hoạ đã bắt đầu." 12Theo lời ông Mô-sê, ông A-ha-ron cầm bình hương, chạy đến giữa công hội, thì này tai hoạ đã bắt đầu hoành hành trong dân. Ông đốt hương và làm nghi thức xá tội cho dân. 13Ông đứng giữa kẻ chết và người sống, tai hoạ liền chấm dứt. 1414.700 người đã chết trong tai hoạ này, không kể những người chết trong vụ Cô-rắc. 15Ông A-ha-ron trở lại đứng bên ông Mô-sê ở cửa Lều Hội Ngộ, thì tai hoạ dứt hẳn.
Cây gậy của ông A-ha-ron
16ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 17"Hãy bảo con cái Ít-ra-en nộp cho ngươi, qua các trưởng tộc, mỗi gia tộc một cây gậy, tất cả là mười hai cây. Ngươi sẽ viết tên mỗi người vào cây gậy của nó. 18Ngươi sẽ viết tên của A-ha-ron lên cây gậy của Lê-vi, vì thủ lãnh gia tộc của chúng cũng phải có một cây gậy. 19Ngươi sẽ đặt các cây gậy đó trong Lều Hội Ngộ, trước Chứng Ước, nơi Ta gặp gỡ các ngươi. 20Ai được Ta chọn thì gậy của nó sẽ đâm chồi, như thế Ta sẽ làm tiêu tan, không để thấu tới Ta những lời con cái Ít-ra-en kêu ca lẩm bẩm, những lời chúng thốt ra chống lại các ngươi."21Ông Mô-sê nói lại với con cái Ít-ra-en và tất cả các trưởng tộc đã trao gậy cho ông, mỗi người một cây gậy theo số các gia tộc: tất cả là mười hai cây, trong đó có cây gậy của ông A-ha-ron. 22Ông Mô-sê đặt các gậy đó trước nhan ĐỨC CHÚA trong Lều Chứng Ước. 23Hôm sau ông Mô-sê tới Lều Chứng Ước, thì kìa, cây gậy của ông A-ha-ron thuộc gia tộc Lê-vi đã đâm chồi, trổ bông và kết trái hạnh đào. 24Từ trước nhan ĐỨC CHÚA, ông Mô-sê lấy tất cả các cây gậy, đưa ra cho toàn thể con cái Ít-ra-en xem, và mỗi người đã nhận lại cây gậy của mình.
25ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Hãy đưa cây gậy của A-ha-ron đặt lại trước Chứng Ước, để lưu trữ như dấu chỉ cảnh cáo những đứa phản loạn. Như thế ngươi sẽ làm tiêu tan không để thấu tới Ta những lời chúng kêu ca lẩm bẩm; và chúng sẽ khỏi phải chết." 26Ông Mô-sê thi hành như ĐỨC CHÚA đã truyền. Ông đã làm đúng như vậy.
Vai trò đền tội của tư tế
27Con cái Ít-ra-en thưa với ông Mô-sê: "Chết chúng tôi rồi! Chết hết! Tiêu vong hoàn toàn! 28Ai mà tới gần Nhà Tạm ĐỨC CHÚA thì sẽ phải chết. Chúng tôi sẽ bị tận diệt sao? "Phần dành cho tư tế
8ĐỨC CHÚA phán với ông A-ha-ron: "Ta đây, Ta trao cho ngươi đảm nhận phần trích dâng trong tất cả các của lễ con cái Ít-ra-en dâng cho Ta. Ta ban cho ngươi và con cái ngươi như phần riêng chiếu theo một quy luật vĩnh viễn. 9Đây là phần dành cho ngươi, trích từ của lễ cực thánh, không bị hoả tế: tất cả lễ tiến người ta hoàn lại cho Ta trong các lễ phẩm, các hiến lễ xá tội và các hiến lễ đền tội. Đó là của cực thánh dành cho ngươi và con cái ngươi. 10Các ngươi sẽ ăn của ấy nơi cực thánh, hễ là nam giới thì được ăn của ấy. Đó là của thánh đối với ngươi.11Và đây cũng là phần dành cho ngươi: phần trích dâng trong tất cả những gì con cái Ít-ra-en tiến dâng theo nghi thức. Ta ban những của ấy cho ngươi và cho con trai con gái ngươi, chiếu theo một quy luật vĩnh viễn. Trong nhà ngươi hễ ai thanh sạch, thì được hưởng. 12Tất cả tinh dầu hảo hạng, mọi thứ rượu mới và lúa miến tốt nhất, tức là những của đầu mùa người ta dâng lên ĐỨC CHÚA, Ta đều ban cho ngươi. 13Tất cả thổ sản đầu mùa người ta dâng cho ĐỨC CHÚA đều là của ngươi; trong nhà ngươi hễ ai thanh sạch thì được hưởng. 14Tất cả những gì là huý vật thánh trong Ít-ra-en đều được dành cho ngươi. 15Tất cả các con đầu lòng của bất cứ xác phàm nào, dù là người hay súc vật, mà người ta dâng cho ĐỨC CHÚA, đều được dành cho ngươi; nhưng ngươi phải cho chuộc lại con đầu lòng của người ta, và con đầu lòng của súc vật không sạch, ngươi cũng cho chuộc lại. 16Ngươi sẽ cho chuộc khi nó được một tháng; tiền chuộc ngươi sẽ ấn định là mười lăm chỉ bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 17Nhưng bò, chiên và dê đầu lòng, ngươi sẽ không cho chuộc lại. Chúng là vật thánh, nên máu chúng, ngươi sẽ đổ trên bàn thờ, còn mỡ thì sẽ đốt làm hoả tế thành hương thơm làm đẹp lòng ĐỨC CHÚA, 18và thịt thì để cho ngươi dùng, cũng như thịt sườn đã được tiến dâng theo nghi thức, và thịt đùi bên phải đều thuộc về ngươi. 19Tất cả các phần trích dâng trong các của lễ thánh mà con cái Ít-ra-en dâng ĐỨC CHÚA, Ta đều ban cho ngươi cũng như cho con trai con gái ngươi, chiếu theo một quy luật vĩnh viễn. Đó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan ĐỨC CHÚA, cho ngươi và dòng dõi ngươi."
Phần dành cho các thầy Lê-vi
20ĐỨC CHÚA phán với ông A-ha-ron: "Đất chia cho chúng, ngươi sẽ không có phần; ngươi không có gia nghiệp ở giữa chúng, và chính Ta là gia nghiệp của ngươi giữa con cái Ít-ra-en.21Đây Ta ban cho con cái Lê-vi làm gia nghiệp tất cả thuế thập phân dân Ít-ra-en nộp, vì họ có công phục dịch Lều Hội Ngộ. 22Con cái Ít-ra-en sẽ không được tới gần Lều Hội Ngộ nữa, kẻo phải mang tội đáng chết. 23Chính các thầy Lê-vi sẽ phục dịch Lều Hội Ngộ và phải mang lấy trách nhiệm về lầm lỗi của mình. Đây là quy tắc vĩnh viễn cho dòng dõi các ngươi; giữa con cái Ít-ra-en, các thầy Lê-vi sẽ không có gia nghiệp, 24vì các thuế thập phân con cái Ít-ra-en trích dâng ĐỨC CHÚA, Ta đã ban cho các thầy Lê-vi làm gia nghiệp. Bởi thế Ta mới bảo chúng rằng: giữa con cái Ít-ra-en, chúng sẽ không có gia nghiệp."
Thuế thập phân
25ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 26"Ngươi hãy nói với các thầy Lê-vi và bảo họ:Khi các ngươi thu thuế thập phân của con cái Ít-ra-en nộp, thuế mà Ta đã ban cho các ngươi làm gia nghiệp, thì các ngươi sẽ dành phần trích dâng cho ĐỨC CHÚA, tức là một phần mười thuế thập phân. 27Của lễ các ngươi dâng đó được kể là phần trích dâng, giống như người ta dâng lúa mì lấy từ ngoài sân và rượu mới lấy từ trong bồn. 28Như vậy là cả các ngươi nữa, các ngươi cũng dành phần trích dâng ĐỨC CHÚA, từ thuế thập phân mà các ngươi thu của con cái Ít-ra-en. Phần trích dâng cho ĐỨC CHÚA, các ngươi sẽ trao cho tư tế A-ha-ron. 29Tất cả các món quà người ta biếu, các ngươi phải trích phần dâng cho ĐỨC CHÚA, phần thánh ấy phải là phần tốt nhất.
30Ngươi hãy nói với họ rằng: Khi các ngươi đã trích dâng phần tốt nhất rồi, thì phần còn lại sẽ được kể là của các ngươi, các thầy Lê-vi, giống như hoa lợi lấy từ ngoài sân và như rượu mới lấy từ trong bồn. 31Các ngươi cũng như gia đình các ngươi có thể ăn của ấy ở bất cứ nơi nào. Đó là thù lao của các ngươi, vì các ngươi phục dịch trong Lều Hội Ngộ. 32Về điểm này các ngươi sẽ không mắc tội gì một khi đã trích dâng phần tuyệt hảo như thế. Nhưng các ngươi chớ xúc phạm đến của thánh con cái Ít-ra-en dâng, kẻo phải chết."
Tro của bò cái màu hung
1ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: 2"Đây là quy tắc trong luật mà ĐỨC CHÚA đã truyền: Ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en đưa tới cho ngươi một con bò cái màu hung đỏ, nguyên tuyền, toàn vẹn và chưa bao giờ mang ách. 3Các ngươi sẽ trao nó cho tư tế E-la-da. Người ta sẽ đưa nó ra ngoài trại và sát tế nó trước mặt ông. 4Tư tế E-la-da sẽ lấy ngón tay nhúng vào máu nó mà rảy bảy lần về phía mặt tiền Lều Hội Ngộ. 5Người ta sẽ thiêu con bò trước mắt ông; da, thịt, máu và phân nó đều đốt hết. 6Và tư tế sẽ lấy gỗ bá hương, hương thảo và chỉ màu đỏ thẫm mà quăng vào giữa con bò đang cháy. 7Sau đó tư tế phải giặt áo, và lấy nước rửa mình cho sạch, rồi trở về trại, tư tế sẽ bị nhiễm uế cho tới chiều. 8Người thiêu con bò ấy cũng phải lấy nước giặt áo và rửa mình cho sạch, và cũng bị nhiễm uế cho tới chiều. 9Một người nào thanh sạch sẽ hốt tro con bò ấy, để ở một nơi thanh sạch, bên ngoài trại. Đối với cộng đồng con cái Ít-ra-en, thì tro đó được dự trữ dùng làm nước tẩy uế. Đó là nghi thức tạ tội. 10Người đã hốt tro con bò cũng phải giặt áo, và cũng bị nhiễm uế cho tới chiều. Đối với con cái Ít-ra-en cũng như với ngoại kiều trú ngụ giữa chúng, thì đó là một quy tắc vĩnh viễn.Trường hợp nhiễm uế
11Ai đụng vào người chết, bất cứ người chết này là ai, đều bị nhiễm uế trong bảy ngày liền. 12Ngày thứ ba và thứ bảy, người đó sẽ lấy nước nói trên mà thanh tẩy mình và sẽ được sạch; nếu người đó không thanh tẩy mình ngày thứ ba và thứ bảy, thì sẽ không được sạch. 13Ai đụng vào người chết -thi thể của một người đã chết- mà không thanh tẩy mình, người đó làm cho Nhà Tạm của ĐỨC CHÚA bị nhiễm uế, người như thế phải bị diệt trừ khỏi Ít-ra-en, vì nó đã không được dội nước tẩy uế. Nó đã bị nhiễm uế, và ô uế vẫn tồn tại nơi nó.14Đây là luật phải giữ khi có người chết trong lều: ai vào lều cũng như mọi người đang ở trong lều, đều bị nhiễm uế trong bảy ngày liền. 15Mọi bình lọ để mở, không được cột kín, đều bị nhiễm uế.
16Bất cứ ai ở ngoài đồng đụng vào một người bị gươm đâm, một tử thi, hoặc xương người hay là mồ mả, đều bị nhiễm uế trong bảy ngày liền.
Nghi thức dùng nước tẩy uế
17Để thanh tẩy người bị nhiễm uế, người ta sẽ lấy một chút tro của con vật đã được hoả tế làm lễ tạ tội, mà pha với nước lã trong một chiếc bình. 18Rồi một người còn thanh sạch lấy nhành hương thảo nhúng vào nước mà rảy lên lều, lên tất cả các vật dụng cùng mọi người ở đó, lên kẻ đã đụng vào xương cốt, vào người bị gươm đâm, hoặc tử thi hay là mồ mả. 19Ngày thứ ba và thứ bảy, người thanh sạch phải rảy nước lên người bị nhiễm uế; và ngày thứ bảy người bị nhiễm uế sẽ được sạch tội. Người này phải lấy nước giặt áo và tắm rửa; đến chiều nó sẽ được sạch. 20Thế nhưng kẻ nào đã bị nhiễm uế mà không chịu tẩy uế, thì nó sẽ bị diệt trừ khỏi công hội, vì nó đã làm cho nơi thánh của ĐỨC CHÚA bị nhiễm uế. Nó đã không được dội nước tẩy uế, nên nó vẫn còn bị nhiễm uế.21Đó là quy tắc vĩnh viễn cho chúng. Người nào rảy nước tẩy uế thì phải giặt áo mình; ai đụng vào nước đó sẽ bị nhiễm uế đến chiều. 22Tất cả những gì mà người bị nhiễm uế đụng vào đều bị nhiễm uế; người nào đụng vào những cái đó cũng bị nhiễm uế cho đến chiều."
VII. TỪ CA-ĐÊ TỚI MÔ-ÁP
Mạch nước Mơ-ri-va (Xh 17:1-7)
1Toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en đến sa mạc Xin vào tháng giêng, và dân ở lại Ca-đê. Bà Mi-ri-am đã qua đời và được chôn cất tại đây.2Cộng đồng không có nước, họ bèn tụ tập phản đối ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 3Dân gây chuyện với ông Mô-sê, họ nói: "Phải chi lúc anh em chúng tôi tắt thở trước mặt ĐỨC CHÚA, thì chúng tôi cũng tắt thở luôn cho rồi. 4Hai ông đưa đại hội của ĐỨC CHÚA vào sa mạc này để làm gì? Có phải để chúng tôi và súc vật của chúng tôi chết ở đây hay không? 5Hai ông đưa chúng tôi từ Ai-cập lên để làm gì? Có phải để đưa chúng tôi vào chốn độc địa này chăng? Đây không phải là nơi để gieo vãi, không vả, không nho, không lựu, không cả nước uống."
6Ông Mô-sê và ông A-ha-ron rời đại hội đến cửa Lều Hội Ngộ, các ông sấp mặt xuống đất. Bấy giờ vinh quang ĐỨC CHÚA hiện ra với các ông. 7ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 8"Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với A-ha-ron, anh ngươi, triệu tập cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói với tảng đá và chúng sẽ cho nước; từ tảng đá, ngươi sẽ làm cho nước chảy ra cho chúng, và ngươi sẽ cho cộng đồng và súc vật của chúng uống."
9Ông Mô-sê cầm lấy cây gậy ở trước nhan ĐỨC CHÚA, như Người đã truyền cho ông. 10Ông Mô-sê và ông A-ha-ron triệu tập đại hội trước tảng đá; ông Mô-sê nói với họ: "Nghe đây, hỡi quân phản nghịch! Từ tảng đá này, chúng tôi có thể làm cho nước chảy ra cho các người được không? " 11Ông Mô-sê giơ tay, lấy gậy đập vào tảng đá hai lần; nước trào ra lai láng cho cộng đồng và súc vật uống.
Trừng phạt ông Mô-sê và ông A-ha-ron
12Bấy giờ ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Bởi vì các ngươi đã không tin vào Ta để biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt con cái Ít-ra-en, nên các ngươi sẽ không được đưa đại hội này vào đất Ta ban cho chúng." 13Đó là mạch nước Mơ-ri-va -nghĩa là gây chuyện- nơi con cái Ít-ra-en đã gây chuyện với ĐỨC CHÚA, và Người đã biểu dương sự thánh thiện của Người giữa họ.Ê-đôm không cho mượn đường
14Từ Ca-đê ông Mô-sê sai sứ giả đến nói với vua Ê-đôm rằng: "Bào huynh của ngài là Ít-ra-en xin thưa với ngài như sau: ngài biết tất cả những nỗi khốn khó chúng tôi đã gặp phải; 15cha ông chúng tôi đã xuống Ai-cập và chúng tôi đã lưu lại Ai-cập lâu dài như thế nào; rồi những người Ai-cập đã hành hạ chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi làm sao; 16chúng tôi đã kêu lên ĐỨC CHÚA và Người đã nghe tiếng chúng tôi và đã sai thần sứ đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập. Và đây, hiện chúng tôi đang ở Ca-đê, một thành sát ranh giới của Ngài. 17Vậy xin để chúng tôi đi qua đất của ngài. Chúng tôi sẽ không băng qua ruộng rẫy, vườn nho, không uống nước giếng, nhưng sẽ cứ vương lộ mà đi, không rẽ bên phải hay bên trái, cho tới khi ra khỏi biên giới của ngài." 18Nhưng Ê-đôm trả lời: "Ngươi không được đi qua đất của ta; nếu không, ta sẽ ra ứng chiến với ngươi." 19Con cái Ít-ra-en đáp lại: "Chúng tôi sẽ cứ quan lộ mà lên; và nếu chúng tôi và đàn vật của chúng tôi có uống nước của ngài, thì chúng tôi sẽ tính sòng phẳng; có chuyện gì đâu, chúng tôi chỉ đi bộ qua thôi." 20Ê-đôm nói: "Không được", rồi đưa quân đông đảo và võ trang hùng hậu ra chặn đường. 21Vì Ê-đôm quyết từ chối không cho Ít-ra-en đi qua lãnh thổ của mình, nên Ít-ra-en đã tránh con đường đó.Ông A-ha-ron qua đời
22Từ Ca-đê, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en lên đường, đi vào vùng núi Ho. 23ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên núi Ho, giáp ranh giới xứ Ê-đôm, rằng: 24"A-ha-ron sẽ về sum họp với tổ tiên; nó sẽ không được vào đất Ta đã ban cho con cái Ít-ra-en, bởi vì các ngươi đã cưỡng lại lệnh Ta bên mạch nước Mơ-ri-va. 25Ngươi hãy gọi A-ha-ron và con của nó là E-la-da lại, và đưa chúng lên núi Ho. 26Ngươi sẽ cởi phẩm phục của A-ha-ron, mặc cho E-la-da con nó; A-ha-ron sẽ về sum họp với tổ tiên và sẽ chết tại đó."27Ông Mô-sê đã làm như ĐỨC CHÚA truyền, và họ lên núi Ho trước mắt toàn thể cộng đồng. 28Ông Mô-sê cởi phẩm phục của ông A-ha-ron, mặc cho con ông này là E-la-da. Ông A-ha-ron đã qua đời tại đó, trên đỉnh núi. Còn ông Mô-sê và ông E-la-da thì xuống núi. 29Khi toàn thể cộng đồng hay biết ông A-ha-ron qua đời, thì cả nhà Ít-ra-en đã khóc thương ông ba mươi ngày.
Chiếm Khoóc-ma
1Vua A-rát, người Ca-na-an, cư ngụ tại Ne-ghép, nghe biết Ít-ra-en theo đường A-tha-rim mà tới, thì đã tấn công Ít-ra-en và bắt được một số tù binh. 2Bấy giờ Ít-ra-en đã khấn với ĐỨC CHÚA lời khấn như sau: "Nếu Ngài trao dân này vào tay con, con sẽ tru diệt các thành của nó." 3ĐỨC CHÚA đã nhận lời Ít-ra-en mà trao người Ca-na-an cho họ, và họ đã tru diệt chúng cùng với các thành của chúng. Người ta đã đặt tên cho nơi đó là Khoóc-ma.Con rắn đồng
4Từ núi Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Ê-đôm; trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn. 5Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê rằng: "Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này."6Bấy giờ ĐỨC CHÚA cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. 7Dân đến nói với ông Mô-sê: "Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách ĐỨC CHÚA và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu ĐỨC CHÚA để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi." Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân. 8ĐỨC CHÚA liền nói với ông: "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống." 9Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.
Những chặng đường sang hữu ngạn sông Gio-đan
10Con cái Ít-ra-en đã lên đường và đóng trại ở Ô-vốt. 11Rồi họ lại rời Ô-vốt lên đường và đóng trại ở I-giê Ha A-va-rim trong sa mạc, đối diện với Mô-áp, ở phía đông. 12Từ đó họ lên đường và đóng ở suối De-rét. 13Từ đây họ lên đường và đóng trại ở bên kia suối Ác-nôn. Suối này nằm trong sa mạc, khởi từ biên giới E-mô-ri. Vì suối Ác-nôn là biên giới Mô-áp phân ranh Mô-áp với E-mô-ri. 14Bởi thế có lời trong cuốn "Chiến sử của ĐỨC CHÚA" rằng:"Đánh chiếm Va-hếp tại Xu-pha, đánh chiếm luôn suối Ác-nôn,15cả triền suối chạy dài tới khu vực A, dọc theo biên giới Mô-áp."
16Và từ đó họ đi tới Bơ-e.Đây chính là giếng mà ĐỨC CHÚA đã nói đến, khi phán với ông Mô-sê: "Hãy tập họp dân lại, và Ta sẽ ban nước cho chúng."
17Bấy giờ Ít-ra-en xướng lên bài ca này:"Vọt lên đi nào, mạch giếng ơi!Các bạn hãy ca mừng giếng nước!
18Giếng xưa kia bậc thủ lãnh đã đào,hàng quyền quý của dân đã khơibằng phủ việt, bằng quyền trượng các ngài! "
19Từ Mát-ta-na tới Na-kha-li-ên, và từ Na-kha-li-ên tới Ba-mốt. 20Rồi từ Ba-mốt tới thung lũng nằm trong vùng quê Mô-áp, gần đỉnh Pít-ga, đối diện với sa mạc.
Chiếm miền hữu ngạn sông Gio-đan (Đnl 2:26-3:11)
21Bấy giờ Ít-ra-en sai các sứ giả đến thưa với Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, rằng: 22"Xin để tôi đi qua đất của ngài; tôi sẽ không băng qua ruộng rẫy, vườn nho, không uống nước giếng; nhưng sẽ cứ vương lộ mà đi, cho tới khi ra khỏi biên giới của ngài." 23Nhưng vua Xi-khôn không cho Ít-ra-en băng qua bờ cõi của ông, lại còn tập họp toàn dân, ra chặn đường Ít-ra-en trong sa mạc. Tới Gia-hát, ông giao chiến với Ít-ra-en. 24Ít-ra-en vung kiếm giết họ và chiếm đất từ Ác-nôn cho tới Giáp-bốc, đến tận biên giới con cái Am-mon. Gia-de là biên giới con cái Am-mon. 25Ít-ra-en đã chiếm lấy tất cả các thành đó và lưu lại trong các thành của người E-mô-ri ở Khét-bôn và các thị trấn phụ thuộc. 26Khét-bôn quả là kinh thành của Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, người đã từng giao tranh với đời vua trước của Mô-áp và chiếm toàn bộ lãnh thổ của vua này cho tới Ác-nôn.27Vì thế, thi nhân có lời rằng:"Hãy đến Khét-bôn mà xây dựng lại,cho kinh thành Xi-khôn được củng cố!
28Vì lửa cháy bốc ra từ Khét-bôn và hoả tai từ phố phường Xi-khônđã huỷ diệt thành A của Mô-ápvà bọn lãnh chúa trên các điểm cao suối Ác-nôn.
29Khốn cho mi, Mô-áp hỡi! Này dân Cơ-mốt, ngươi mạt vận rồi!Con trai ngươi bị đuổi xua chạy trốn,con gái ngươi bị nộp cho Xi-khôn, vua E-mô-ri.
30Ruộng rẫy của chúng bị huỷ hoại từ Khét-bôn cho tới Đi-vôn.Chúng tôi đã nổi lửa đốt phá từ Nô-phác cho tới Mê-đơ-va."
31Ít-ra-en đã định cư trên đất người E-mô-ri.
32Ông Mô-sê sai người đi do thám Gia-de: họ đã chiếm các thị trấn phụ thuộc và trục xuất người E-mô-ri cư ngụ tại đó.
33Rồi họ đổi hướng và lên đường đi Ba-san. Vua Ba-san là Ốc, cùng toàn thể dân của ông ra chặn đường, để giao chiến với họ tại Ét-re-i. 34Nhưng ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Đừng sợ nó, vì Ta đã trao nó cùng tất cả dân cư và đất đai của nó vào tay ngươi. Ngươi hãy xử với nó như đã xử với Xi-khôn, vua dân E-mô-ri ở Khét-bôn." 35Thế là họ đánh bại vua ấy, con cái và toàn dân ông, không để sót một người nào, và họ đã chiếm lấy đất của ông.
2Vua Ba-lác, con vua Xíp-po, đã thấy tất cả những gì Ít-ra-en gây cho người E-mô-ri. 3Người Mô-áp khiếp sợ trước đám dân đó, vì họ quá đông.Mô-áp kinh hãi phải đối đầu với con cái Ít-ra-en.
4Mô-áp nói với các kỳ mục Ma-đi-an rằng: "Này đám người ấy sẽ ngốn hết chung quanh chúng ta, như bò ngốn cỏ ngoài đồng."
5Vua liền sai các sứ giả đến mời Bi-lơ-am, con của Bơ-o, ở Pơ-tho, gần sông Cả, trong đất của con cái Am-mon. Vua nói: "Này, có một dân đã ra khỏi Ai-cập, lan tràn khắp xứ và hiện đang đóng trại đối diện với ta. 6Bây giờ xin ông đến nguyền rủa dân đó cho ta, vì nó mạnh hơn ta. May ra nhờ thế ta có thể đánh bại được nó và đuổi nó ra khỏi lãnh thổ của ta. Vì ta biết kẻ nào được ông chúc phúc thì được phúc và kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc hoạ."
7Các kỳ mục Mô-áp và các kỳ mục Ma-đi-an đã lên đường, cầm theo tiền thù lao cho lời sấm; họ tới gặp ông Bi-lơ-am và chuyển tới ông lời của vua Ba-lác. 8Ông nói với họ: "Mời các ông qua đêm ở đây, rồi tôi sẽ trả lời cho các ông theo như ĐỨC CHÚA nói với tôi." Vậy các thủ lãnh Mô-áp đã ở lại với ông Bi-lơ-am. 9Thiên Chúa đến với ông Bi-lơ-am và phán rằng: "Những kẻ đang ở với ngươi là ai đó? " 10Ông Bi-lơ-am thưa lại với Thiên Chúa: "Ba-lác, con của Xíp-po, vua Mô-áp, đã sai họ đến nói với tôi rằng: 11Này, đám dân ra khỏi Ai-cập nay đã lan tràn khắp xứ; xin ông đến nguyền rủa nó cho ta. May ra nhờ thế ta có thể giao tranh với nó và đuổi nó đi." 12Bấy giờ Thiên Chúa phán bảo ông Bi-lơ-am: "Ngươi không được đi với chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc." 13Sáng hôm sau ông Bi-lơ-am trỗi dậy và nói với các thủ lãnh vua Ba-lác đã sai đến, rằng: "Các ông hãy trở về xứ các ông; ĐỨC CHÚA đã từ chối không để cho tôi đi với các ông." 14Vậy các thủ lãnh Mô-áp trỗi dậy, trở về với vua Ba-lác và nói: "Ông Bi-lơ-am đã từ chối không chịu cùng đến với chúng tôi."
15Một lần nữa vua Ba-lác lại sai các thủ lãnh đông hơn và có thế giá hơn những người trước. 16Họ đến gặp ông Bi-lơ-am và thưa rằng: "Vua Ba-lác, con của vua Xíp-po nói thế này: Ông đừng ngại đến với ta; 17chắc chắn ta sẽ hết sức trọng đãi ông, và tất cả những gì ông bảo, ta sẽ làm; ông cứ đến nguyền rủa dân ấy giúp ta." 18Nhưng ông Bi-lơ-am trả lời và nói với bầy tôi vua Ba-lác rằng: "Vua Ba-lác có cho tôi một nhà đầy bạc đầy vàng, tôi cũng chẳng làm gì trái lệnh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của tôi được, dù việc lớn hay việc nhỏ. 19Nhưng bây giờ, cả các ông nữa, mời các ông cũng nghỉ đêm ở đây, và tôi sẽ biết ĐỨC CHÚA có phán thêm điều gì với tôi không." 20Đêm ấy Thiên Chúa đến với ông Bi-lơ-am và phán bảo ông: "Những người ấy đến, không phải để gọi ngươi đó sao? Cứ trỗi dậy, đi với chúng. Nhưng ngươi chỉ được làm điều Ta bảo ngươi." 21Sáng ngày, ông Bi-lơ-am trỗi dậy, thắng con lừa cái của mình và lên đường với các thủ lãnh Mô-áp.Con lừa cái của ông Bi-lơ-am
22Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa bừng lên vì ông đã ra đi, và thần sứ của ĐỨC CHÚA đứng trên đường chận lối ông đi. Ông cỡi con lừa cái của mình, có hai tiểu đồng đi theo. 23Khi con lừa thấy thần sứ của ĐỨC CHÚA đứng trên đường, gươm trần trong tay, thì nó tránh đường, đi xuống ruộng. Ông Bi-lơ-am đánh con lừa cho nó lên trên đường.
24Bấy giờ thần sứ của ĐỨC CHÚA đứng chặn tại một đường mòn giữa các vườn nho, tả hữu có tường. 25Con lừa cái trông thấy thần sứ của ĐỨC CHÚA thì đi ép vào tường khiến chân ông Bi-lơ-am bị cọ xát. Ông lại đánh nó.
26Thần sứ của ĐỨC CHÚA lại đi tới và đứng ở một nơi chật hẹp đến nỗi không còn chỗ tránh qua bên tả bên hữu. 27Con lừa trông thấy thần sứ của ĐỨC CHÚA, liền nằm bẹp xuống bên dưới ông Bi-lơ-am. Ông Bi-lơ-am nổi nóng lại dùng gậy đánh con lừa.
28Bấy giờ ĐỨC CHÚA liền mở miệng con lừa; nó nói với ông Bi-lơ-am: "Tôi đã làm gì ông, mà ông lại đánh tôi những ba lần? " 29Ông Bi-lơ-am nói với con lừa: "Vì mày đã ngạo tao. Tao mà có sẵn chiếc gươm trong tay, thì tao đã giết mày rồi! " 30Con lừa nói với ông Bi-lơ-am: "Tôi không phải là con lừa cái của ông, mà ông đã cỡi mãi cho tới ngày hôm nay sao? Tôi có quen làm như vậy với ông bao giờ chưa? " Ông đáp: "Chưa bao giờ."
31Bấy giờ ĐỨC CHÚA mới mở mắt cho ông Bi-lơ-am thấy thần sứ của ĐỨC CHÚA trên đường, gươm trần trong tay. Ông quỳ xuống, sấp mặt sát đất. 32Thần sứ của ĐỨC CHÚA nói với ông: "Tại sao ngươi đánh con lừa của ngươi những ba lần? Này, chính Ta đứng ra chặn đường ngươi, vì trước mặt Ta, con đường này nguy hiểm. 33Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt Ta những ba lần. Giả như nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống." 34Ông Bi-lơ-am thưa với thần sứ của ĐỨC CHÚA: "Tôi đã trót phạm tội, vì tôi không biết là Ngài đứng chặn đường không cho tôi đi. Bây giờ nếu Ngài thấy là không được, thì tôi sẽ quay về nhà." 35Thần sứ của ĐỨC CHÚA nói với ông Bi-lơ-am: "Ngươi cứ đi với các người ấy; nhưng ngươi chỉ được nói điều Ta bảo ngươi." Thế là ông Bi-lơ-am cùng đi với các thủ lãnh của vua Ba-lác.
Ông Bi-lơ-am và vua Ba-lác
36Khi ông Ba-lác nghe tin ông Bi-lơ-am tới, thì ra đón ông tại kinh thành Mô-áp, trên ranh giới Ác-nôn, ở điểm chót của ranh giới. 37Vua Ba-lác nói với ông Bi-lơ-am: "Nào tôi đã chẳng cho người đến mời ông sao? Tại sao ông lại không đến với tôi? Dễ thường tôi không đủ khả năng trọng đãi ông? " 38Ông Bi-lơ-am thưa lại với vua Ba-lác: "Này tôi đã đến với ông đây. Nhưng tôi có thể nói gì bây giờ? Lời nào Thiên Chúa đặt vào miệng tôi thì tôi nói thôi."39Ông Bi-lơ-am cùng đi với vua Ba-lác; họ tới Kia-giát Khu-xốt. 40Vua Ba-lác sát tế bò chiên và gửi biếu ông Bi-lơ-am và các thủ lãnh đang ở với ông này. 41Sáng hôm sau vua Ba-lác mời ông Bi-lơ-am tới, và đưa ông lên Ba-mốt Ba-an; từ đây ông nhìn thấy phần cuối trại của dân.
Lời sấm của Bi-lơ-am
4Thiên Chúa đón gặp ông Bi-lơ-am, và ông thưa với Người: "Tôi đã sắp đặt bảy bàn thờ và đã dâng một con bò mộng và một con cừu đực tại mỗi bàn thờ." 5Bấy giờ ĐỨC CHÚA đặt một lời vào miệng ông Bi-lơ-am, và bảo ông rằng: "Hãy trở về với Ba-lác và nói như sau." 6Ông trở về với vua, thì này vua đang đứng cạnh lễ toàn thiêu cùng với tất cả các thủ lãnh Mô-áp. 7Ông cất tiếng đọc bài thơ của mình như sau:"Từ A-ram, Ba-lác vua Mô-áp đã cho mời tôi đếntừ các vùng đồi núi phía đông:Hãy đến mà trù Gia-cóp cho ta, hãy đến mà rủa Ít-ra-en!8Làm sao tôi trù được kẻ Thượng Đế không trù?Làm sao tôi rủa được kẻ ĐỨC CHÚA không rủa?
9Thật ra, tôi đã thấy nó từ các đỉnh núi cao,từ các ngọn đồi, tôi đã nhìn ngắm nó:Nó là một dân được tách biệt;không bị xếp đồng hàng với chư dân.
10Ai đếm được bụi đất của Gia-cóp?Ai điểm được một phần tư của Ít-ra-en?Ước chi tôi được chết cái chết của người công chính,và tôi được mãn phần như họ."
11Vua Ba-lác nói với ông Bi-lơ-am: "Ông làm gì ta thế? Ta đưa ông tới để ông nguyền rủa kẻ thù của ta, thế mà, này ông chỉ chúc phúc thôi! " 12Ông trả lời và nói: "Tôi lại không phải lo nói điều ĐỨC CHÚA đặt vào miệng tôi sao? " 13Vua Ba-lác nói với ông: "Mời ông đi chỗ khác với ta, từ nơi ấy ông sẽ thấy dân; ông sẽ chỉ thấy phần cuối của nó, chứ không thấy hết đâu. Từ nơi ấy, ông hãy nguyền rủa nó cho ta." 14Bấy giờ vua đưa ông ấy tới cánh đồng Xô-phim, lên ngọn Pít-ga, rồi xây bảy bàn thờ, và dâng một con bò mộng và một con cừu đực làm lễ toàn thiêu tại mỗi bàn thờ. 15Ông Bi-lơ-am thưa với vua Ba-lác: "Xin ngài đứng đây, bên các lễ toàn thiêu của ngài, còn tôi sẽ đi gặp Thiên Chúa ở đàng kia." 16ĐỨC CHÚA đón ông Bi-lơ-am, Người đặt vào miệng ông một lời và bảo ông rằng: "Hãy trở về với Ba-lác và nói như sau." 17Ông trở về với vua, thì này vua đang đứng bên các lễ toàn thiêu của mình cùng với các thủ lãnh Mô-áp. Vua Ba-lác hỏi: "ĐỨC CHÚA đã nói gì thế? " 18Ông Bi-lơ-am cất tiếng đọc bài thơ của mình như sau:"Này vua Ba-lác, đứng dậy mà nghe,hãy lắng tai nghe tôi, hỡi con của Xíp-po:
19Thiên Chúa không phải là phàm nhân mà gian ngoa được,cũng chẳng là con người mà phải hối hận.Phải chăng Người nói mà không làm?Hay Người phán mà không thực hiện?
20Này Chúa bắt tôi phải chúc phúc,tôi sẽ chúc phúc mà không tiếc lời.
21Tôi đã không thấy gian ác nơi Gia-cóp,cũng chẳng gặp áp bức trong Ít-ra-en.ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của nó, hằng kề bên,tiếng "vạn tuế Đức Vua" trỗi vang lừng.
22Thiên Chúa đã đưa nó ra khỏi Ai-cập,Người là sức mạnh của nó tựa sừng trâu.
23Vì chẳng có tiếng trù hại Gia-cóp,cũng không có lời rủa chống Ít-ra-en.Mà người ta còn nói về Gia-cópvà Ít-ra-en: Thiên Chúa làm gì vậy?
24Này một dân chỗi dậy như sư tử cái,như sư tử đực, nó chồm lên.nó không nằm xuống khi chưa nuốt mồi,chưa uống máu những người nó đã giết."
25Vua Ba-lác nói với ông Bi-lơ-am: "Nếu ông không nguyền rủa nó được, thì ít ra đừng chúc phúc cho nó! " 26Nhưng ông Bi-lơ-am trả lời và nói với vua Ba-lác: "Tôi đã không thưa với ngài là tôi phải làm tất cả những gì ĐỨC CHÚA phán bảo sao? "
27Vua Ba-lác lại nói với ông Bi-lơ-am: "Đến đây, ta sẽ đưa ông đi nơi khác, may ra tại đó Thiên Chúa sẽ chấp thuận cho ông nguyền rủa nó cho ta." 28Vua Ba-lác đưa ông Bi-lơ-am lên ngọn Pơ-o, là ngọn núi đối diện với sa mạc. 29Ông Bi-lơ-am nói với vua Ba-lác: "Xin xây cho tôi bảy bàn thờ ngay tại đây, liệu ở đây cho tôi bảy con bò mộng và bảy con cừu đực." 30Vua Ba-lác làm như ông Bi-lơ-am nói và ông đã dâng một con bò mộng và một con cừu đực làm lễ toàn thiêu tại mỗi bàn thờ.
4Sấm ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa,người ngắm nhìn thị kiến Đấng Toàn Năng,của người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần.
5Hỡi Gia-cóp, lều bạt của ngươi đẹp biết mấy!Hỡi Ít-ra-en, đẹp biết mấy doanh trại của ngươi!
6Như thung lũng trải dài, như vườn cạnh bờ sông,như lô hội ĐỨC CHÚA đã trồng,như hương nam mọc bên dòng nước.
7Từ các bồn của nó, nước tràn ra,và hạt giống nó được tưới dồi dào.Vua của nó cao cả hơn A-gác,và vương quốc nó được tôn vinh.
8Thiên Chúa đã đưa nó ra khỏi Ai-cập,Người là sức mạnh của nó tựa sừng trâu.Nó sẽ nuốt chư dân thù nghịch nó.Xương của chúng, nó sẽ nghiền nát tanvà dùng tên bắn gục quân thù.
9Nó phục xuống, nằm yên như sư tử.Nó tựa sư tử cái, ai nào dám tấn công?Phúc thay kẻ chúc phúc cho ngươi!Và khốn cho kẻ trù rủa ngươi! "
10Vua Ba-lác nổi giận với ông Bi-lơ-am. Vua đập tay và nói với ông Bi-lơ-am: "Ta đã vời ông đến để ông nguyền rủa quân thù của ta, nhưng này, đã ba lần ông chỉ chúc phúc cho nó. 11Bây giờ ông hãy về đi. Ta đã nói ta sẽ trọng đãi ông, nhưng này ĐỨC CHÚA không cho ông được trọng đãi." 12Ông Bi-lơ-am thưa vua Ba-lác: "Tôi đã không nói với các sứ giả ngài sai đến với tôi thế này sao, là 13vua Ba-lác có cho tôi một nhà đầy bạc đầy vàng, tôi cũng không thể trái lệnh ĐỨC CHÚA, mà tự ý làm điều gì, dù tốt hay xấu; ĐỨC CHÚA nói sao, tôi nói vậy. 14Bây giờ tôi sắp về với dân tôi. Này, tôi nói cho ngài biết điều mà dân (Ít-ra-en) sẽ làm cho dân ngài trong những ngày gần đây." 15Rồi ông cất tiếng đọc bài thơ của mình như sau:"Sấm ngôn của Bi-lơ-am, con Bơ-o,sấm ngôn của người mắt vẫn mở.
16Sấm ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa,và biết những tư tưởng của Đấng Tối Cao,được Đấng Toàn Năng cho nhìn linh thị,của người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần.
17Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc,tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên;một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp,một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-ensẽ đập vào màng tang Mô-áp, đánh vỡ sọ tất cả con cái Sết,
18và xâm chiếm Ê-đôm,cả Xê-ia cũng bị xâm chiếm nữa.Ít-ra-en sẽ biểu dương sức mạnh,
19Gia-cóp sẽ thống trị quân thù,và tiêu diệt kẻ trốn khỏi thành phố."
20Khi thấy A-ma-lếch, ông cất tiếng đọc câu thơ như sau:"A-ma-lếch đứng đầu chư dânnhưng hậu vận nó sẽ muôn đời tận tuyệt."
21Khi thấy người Kê-ni, ông cất tiếng đọc câu thơ như sau:"Hiện nay dinh thự ngươi kiên cố,và tổ ấm ngươi được đặt trên đá tảng.
22Nhưng Ca-in sẽ phải tiêu vong,ngươi sẽ bị Át-sua cầm tù, biết đến khi nao? "
23Và ông cất tiếng đọc câu thơ như sau:"Ôi, khi Thiên Chúa ra tay, ai nào sống nổi!
24Tàu bè từ Kít-tim đến, đàn áp Át-sua, đàn áp Ê-ve,nhưng chính nó cũng muôn đời tận tuyệt."
25Sau đó ông Bi-lơ-am đứng dậy lên đường về xứ, còn vua Ba-lác cũng đường mình mà đi.
Ít-ra-en tại Pơ-o
1Khi trú ngụ tại Sít-tim, dân Ít-ra-en bắt đầu dâm đãng với gái Mô-áp. 2Bọn này rủ rê dân thờ cúng các thần của chúng; dân đã ăn uống và thờ lạy các thần của chúng. 3Ít-ra-en bán mình cho Ba-an Pơ-o và ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với họ.4ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Hãy đem tất cả các thủ lãnh của dân ra ngoài nắng mà treo lên trước mặt ĐỨC CHÚA, để ĐỨC CHÚA nguôi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en." 5Ông Mô-sê nói với các thẩm phán: "Mỗi người trong anh em hãy giết những kẻ đã bán mình cho Ba-an Pơ-o."
6Bỗng một người trong số con cái Ít-ra-en xuất hiện, dẫn theo một gái Ma-đi-an về nhà, ngay trước mắt ông Mô-sê và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en lúc ấy đang khóc lóc tại cửa Lều Hội Ngộ. 7Thấy vậy, ông Pin-khát, con của E-la-da, cháu tư tế A-ha-ron, liền đứng lên giữa cộng đồng, cầm một chiếc giáo trong tay, 8đi theo người Ít-ra-en vào tận phòng hắn và đâm cả hai người, gã đàn ông Ít-ra-en và mụ đàn bà kia ngay giữa bụng. Thế là chấm dứt tai ương đe doạ con cái Ít-ra-en. 9Số người chết trong tai ương đó, là 24.000.
10ĐỨC CHÚA phán bảo ông Mô-sê rằng: 11"Pin-khát con của E-la-da, cháu tư tế A-ha-ron, đã ngăn Ta trút cơn phẫn nộ xuống con cái Ít-ra-en, khi nó cũng nổi ghen như Ta, chống lại bọn người kia. Vì vậy Ta không tiêu diệt con cái Ít-ra-en trong cơn ghen của Ta. 12Cho nên, ngươi hãy bảo nó: Này, Ta ban cho nó giao ước bình an của Ta. 13Đối với nó, cũng như con cháu nó sau này, đó sẽ là giao ước bảo đảm cho nó chức tư tế đời đời, bởi vì nó đã nổi ghen cho Thiên Chúa của nó, và làm cho con cái Ít-ra-en được xá tội."
14Người Ít-ra-en đã bị đâm cùng với người đàn bà Ma-đi-an tên là Dim-ri, con của Xa-lu, đứng đầu một gia tộc thuộc Si-mê-ôn. 15Và người đàn bà Ma-đi-an bị đâm tên là Cót-bi, con gái ông Xua, ông này là thủ lãnh các dòng họ một gia tộc Ma-đi-an.
16ĐỨC CHÚA phán bảo ông Mô-sê rằng: 17"Hãy tấn công quân Ma-đi-an và giết chúng đi. 18Vì chúng đã tấn công các ngươi, và dùng mưu mô quỷ quyệt đối với các ngươi trong vụ Pơ-o và vụ Cót-bi, con gái một thủ lãnh Ma-đi-an, chị em của chúng, kẻ đã bị đâm chết ngày xảy ra tai ương trong vụ Pơ-o."
VIII. QUY ĐỊNH MỚI
Kiểm tra
19Sau tai ương đó,5Rưu-vên, trưởng nam của Ít-ra-en. Con cái Rưu-vên: Kha-nốc, thủy tổ thị tộc Kha-nốc; Pa-lu, thủy tổ thị tộc Pa-lu; 6Khét-rôn, thủy tổ thị tộc Khét-rôn; Các-mi, thủy tổ thị tộc Các-mi. 7Đó là các thị tộc thuộc chi tộc Rưu-vên. Tổng số người được kiểm là 43.730.
8Con cháu Pa-lu: Ê-li-áp. 9Các con Ê-li-áp là Nơ-mu-ên, Đa-than và A-vi-ram. Chính Đa-than và A-vi-ram, những người được chỉ định trong cộng đồng, đã nổi lên chống ông Mô-sê và ông A-ha-ron, cùng toa rập với Cô-rắc chống lại ĐỨC CHÚA. 10Đất đã mở họng nuốt chửng chúng và Cô-rắc, khiến cả bọn phải tiêu vong, và lửa đã thiêu huỷ 250 mạng để làm gương. 11Thế nhưng con cái Cô-rắc đã không chết.
12Con cháu Si-mê-ôn, theo thị tộc của họ: Nơ-mu-ên, thủy tổ thị tộc Nơ-mu-ên; Gia-min, thủy tổ thị tộc Gia-min; Gia-khin, thủy tổ thị tộc Gia-khin; 13De-rác, thủy tổ thị tộc De-rác; Sa-un, thủy tổ thị tộc Sa-un. 14Đó là các thị tộc thuộc chi tộc Si-mê-ôn, số người được kiểm tra là 22.000.
15Con cháu Gát, theo thị tộc của họ: Xơ-phôn, thủy tổ thị tộc Xơ-phôn; Khác-ghi, thủy tổ thị tộc Khác-ghi; Su-ni, thủy tổ thị tộc Su-ni; 16Ót-ni, thủy tổ thị tộc Ót-ni; Ê-ri, thủy tổ thị tộc Ê-ri; 17A-rốt, thủy tổ thị tộc A-rốt; Ác-ê-li, thủy tổ thị tộc Ác-ê-li. 18Đó là các thị tộc con cháu Gát, số người được kiểm tra là 40.500.
19Các con Giu-đa là E và Ô-nan, nhưng E và Ô-nan chết trong đất Ca-na-an. 20Con cháu Giu-đa theo thị tộc: Sê-la, thủy tổ thị tộc Sê-la; Pe-rét, thủy tổ thị tộc Pe-rét; De-rác, thủy tổ thị tộc De-rác. 21Con cháu Pe-rét: Khét-rôn, thủy tổ thị tộc Khét-rôn; Kha-mun, thủy tổ thị tộc Kha-mun. 22Đó là các thị tộc thuộc chi tộc Giu-đa, số người được kiểm tra là 76.500.
23Con cháu Ít-xa-kha theo thị tộc của họ: Tô-la, thủy tổ thị tộc Tô-la; Pu-va, thủy tổ thị tộc Pu-va; 24Gia-súp, thủy tổ thị tộc Gia-súp; Sim-rôn, thủy tổ thị tộc Sim-rôn. 25Đó là các thị tộc thuộc chi tộc Ít-xa-kha, số người được kiểm tra là 64.300.
26Con cháu Dơ-vu-lun theo thị tộc của họ: Xe-rét, thủy tổ thị tộc Xe-rét; Ê-lôn, thủy tổ thị tộc Ê-lôn; Giác-lơ-ên, thủy tổ thị tộc Giác-lơ-ên. 27Đó là các thị tộc thuộc chi tộc Dơ-vu-lun, số người được kiểm tra là 60.500.
28Con cái Giu-se, theo chi tộc họ: Mơ-na-se và Ép-ra-im. 29Con cháu Mơ-na-se: Ma-khia, thủy tổ thị tộc Ma-khia; Ma-khia sinh Ga-la-át: Ga-la-át, thủy tổ thị tộc Ga-la-át. 30Đây là con cái Ga-la-át: I-e-de, thủy tổ thị tộc I-e-de; Khê-léc, thủy tổ thị tộc Khê-léc. 31Át-ri-ên, thủy tổ thị tộc Át-ri-ên; Se-khem, thủy tổ thị tộc Se-khem. 32Sơ-mi-đa, thủy tổ thị tộc Sơ-mi-đa; Khê-phe, thủy tổ thị tộc Khê-phe. 33Xơ-lóp-khát, con của Khê-phe, không có con trai, chỉ có con gái, và đây là tên các con gái của Xơ-lóp-khát: Mác-la, Nô-a, Khoóc-la, Min-ca và Tia-xa. 34Đó là các thị tộc thuộc chi tộc Mơ-na-se; số người được kiểm tra là 52.700.
35Đây là con cháu Ép-ra-im, theo thị tộc của họ: Su-the-lác, thủy tổ thị tộc Su-the-lác; Be-khe, thủy tổ thị tộc Be-khe; Ta-khan, thủy tổ thị tộc Ta-khan. 36Và đây là các con cháu Su-the-lác: Ê-ran, thủy tổ thị tộc Ê-ran. 37Đó là các thị tộc con cháu Ép-ra-im, số người được kiểm tra là 32.500. Những người ấy là con cháu Giu-se, theo các thị tộc.
38Con cháu Ben-gia-min theo thị tộc của họ: Be-la, thủy tổ thị tộc Be-la; Át-bên, thủy tổ thị tộc Át-bên; A-khi-ram, thủy tổ thị tộc A-khi-ram. 39Sơ-phu-pham, thủy tổ thị tộc Sơ-phu-pham; Khu-pham, thủy tổ thị tộc Khu-pham. 40Các con của Be-la là: Ác-đơ và Na-a-man; Ác-đơ, thủy tổ thị tộc Ác-đơ; Na-a-man, thủy tổ thị tộc Na-a-man. 41Đó là các thị tộc con cháu Ben-gia-min; số người được kiểm tra là 45.600.
42Đây là con cháu Đan theo thị tộc của họ: Su-kham, thủy tổ thị tộc Su-kham. Đó là các thị tộc thuộc chi tộc Đan được kiểm tra. 43Tất cả các thị tộc thuộc Su-kham được kiểm tra, số người là 64.400.
44Con cháu A-se theo thị tộc của họ: Gim-na, thủy tổ thị tộc Gim-na; Gít-vi, thủy tổ thị tộc Gít-vi; Bơ-ri-a, thủy tổ thị tộc Bơ-ri-a. 45Thuộc con cháu Bơ-ri-a: Khe-ve, thủy tổ thị tộc Khe-ve; Man-ki-ên, thủy tổ thị tộc Man-ki-ên. 46Tên người con gái của A-se là Xa-rác. 47Đó là các thị tộc con cháu A-se; số người được kiểm tra là 53.400.
48Con cháu Náp-ta-li theo thị tộc của họ: Giác-xơ-ên, thủy tổ thị tộc Giác-xơ-ên; Gu-ni, thủy tổ thị tộc Gu-ni. 49Giê-xe, thủy tổ thị tộc Giê-xe; Si-lêm, thủy tổ thị tộc Si-lêm. 50Đó là các thị tộc Náp-ta-li, theo các thị tộc của họ; số người được kiểm tra là 45.400.
51Đây tổng số con cái Ít-ra-en là 601.730.
52ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 53"Đất đai sẽ được phân chia cho những người ấy theo số tên đã ghi. 54Đông người thì ngươi sẽ chia cho phần lớn hơn làm gia nghiệp, và ít người thì ngươi sẽ chia cho phần nhỏ hơn làm gia nghiệp; ngươi sẽ cho mỗi chi tộc phần gia nghiệp tương xứng với số người đã được kiểm tra. 55Nhưng phải bắt thăm để chia đất. Theo tên các chi tộc tổ tiên của chúng mà lãnh phần. 56Cứ bắt thăm mà lãnh, tuỳ theo đông người hay ít người."
Kiểm tra các thầy Lê-vi
57Đây là các thầy Lê-vi đã được kiểm tra theo thị tộc của họ: Ghéc-sôn, thủy tổ thị tộc Ghéc-sôn; Cơ-hát, thủy tổ thị tộc Cơ-hát; Mơ-ra-ri, thủy tổ thị tộc Mơ-ra-ri.58Đây là các thị tộc thuộc chi tộc Lê-vi: Thị tộc Líp-ni, thị tộc Khép-rôn, thị tộc Mác-li, thị tộc Mu-si, thị tộc Cô-rắc.
59Tên người vợ của Am-ram là Giô-khe-vét, con gái ông Lê-vi, ông đã sinh bên Ai-cập. Bà đã sinh cho ông Am-ram: A-ha-ron, Mô-sê và người em gái là Mi-ri-am. 60Ông A-ha-ron sinh ra Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da, và I-tha-ma. 61Na-đáp và A-vi-hu đã chết khi họ dâng lửa phàm trước nhan ĐỨC CHÚA.
62Số người Lê-vi được kiểm tra, tất cả con trai từ một tháng trở lên, là 23.000 bởi họ đã không được kiểm tra chung với con cái Ít-ra-en, vì không được chung phần gia nghiệp.
63Đó là những người được ông Mô-sê và tư tế E-la-da kiểm tra, khi các ông kiểm tra con cái Ít-ra-en trong thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô. 64Không ai trong những người ấy đã được ông Mô-sê và tư tế A-ha-ron kiểm tra, khi các ông kiểm tra con cái Ít-ra-en trong sa mạc Xi-nai. 65Vì, về những người này, ĐỨC CHÚA đã phán là họ sẽ phải chết trong sa mạc. Bởi vậy, trừ ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, và trừ ông Giô-suê, con ông Nun, thì không còn ai nữa.
Gia tài cho con gái
1Bấy giờ các con gái của ông Xơ-lóp-khát tiến đến. Ông này là con ông Khê-phe, cháu ông Ga-la-át, chắt ông Ma-khia, chít ông Mơ-na-se, thuộc chi tộc ông Giu-se. Và đây là tên các cô gái đó: Mác-la, Nô-a, Khoóc-la, Min-ca và Tia-xa. 2Họ đứng trước mặt ông Mô-sê, trước mặt tư tế E-la-da, trước mặt các thủ lãnh và toàn thể cộng đồng, ở cửa Lều Hội Ngộ, và nói: 3"Cha chúng tôi đã mất trong sa mạc. Người đã không có chân trong nhóm những kẻ toa rập với nhau chống lại ĐỨC CHÚA, tức là nhóm Cô-rắc. Chỉ vì tội riêng mình mà người đã mất đi, khi chưa có con trai. 4Tại sao cha chúng tôi lại bị xoá tên khỏi thị tộc của người, vì người không có con trai? Xin cho chúng tôi một phần đất giữa các anh em của cha chúng tôi."5Ông Mô-sê trình lên ĐỨC CHÚA trường hợp của họ. 6ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 7"Các con gái của Xơ-lóp-khát nói có lý. Ngươi phải cho chúng một phần đất làm gia nghiệp giữa các anh em của cha chúng; ngươi sẽ chuyển cho chúng gia nghiệp của cha chúng. 8Và ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en: "Khi một người nào chết mà không có trai, thì anh em sẽ chuyển gia nghiệp của người đó cho con gái người đó. 9Nếu người đó không có con gái, anh em sẽ trao gia nghiệp cho anh em của người đó. 10Nếu người đó không có anh em, thì sẽ trao gia nghiệp cho anh em của cha người đó. 11Còn nếu cha người đó không có anh em, thì sẽ trao gia nghiệp cho thân nhân gần nhất trong thị tộc; người này sẽ làm chủ gia nghiệp đó. Đối với con cái Ít-ra-en, đó sẽ là một quy tắc pháp lý, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê."
Ông Giô-suê làm thủ lãnh cộng đồng
12ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy lên ngọn núi kia của dãy A-va-rim, và hãy nhìn xem miền đất mà Ta ban cho con cái Ít-ra-en. 13Khi đã nhìn xem rồi, ngươi cũng sẽ về sum họp với gia tiên, như A-ha-ron anh ngươi, 14vì ở sa mạc Xin, trong lúc cộng đồng chống đối Ta, các ngươi đã chống lại lệnh Ta truyền làm cho nước chảy ra để tỏ bày sự thánh thiện của Ta trước mắt chúng. Đó là vụ nước Mơ-ri-va ở Ca-đê, trong sa mạc Xin."15Ông Mô-sê thưa với ĐỨC CHÚA: 16"Ước gì ĐỨC CHÚA, là Thiên Chúa ban sinh khí cho mọi xác phàm, đặt một người lãnh đạo cộng đồng. 17Người ấy sẽ ra vào trước họ và dẫn họ ra vào, để cộng đồng của ĐỨC CHÚA đừng giống như đàn chiên không có mục tử chăn dắt." 18ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đem theo Giô-suê, con của Nun, là người có thần khí nơi mình, và ngươi sẽ đặt tay trên nó. 19Ngươi sẽ cho nó đứng trước mặt tư tế E-la-da và trước mặt toàn thể cộng đồng. Ngươi sẽ truyền lệnh cho nó trước mắt chúng. 20Ngươi sẽ chia cho nó một phần uy quyền của ngươi, để toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en nghe lời nó. 21Nó sẽ đứng trước mặt tư tế E-la-da. Tư tế sẽ đến trước nhan ĐỨC CHÚA mà xin thẻ xăm u-rim cho nó. Theo lệnh của tư tế, toàn thể cộng đồng, nghĩa là nó và mọi con cái Ít-ra-en, sẽ ra sẽ vào."
22Ông Mô-sê đã làm như ĐỨC CHÚA truyền cho ông: Ông đã đem theo Giô-suê và cho ông này đứng trước mặt tư tế E-la-da và trước mặt toàn thể cộng đồng. 23Ông đặt tay trên ông Giô-suê và ra lệnh cho ông ấy như ĐỨC CHÚA đã dùng ông Mô-sê mà phán.
Xác định về các hy lễ
1ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 2"Hãy ra lệnh cho con cái Ít-ra-en, và nói với chúng lời của Ta:Vào đúng thời đúng buổi, các ngươi sẽ chăm lo dâng lên Ta lễ vật, lương thực, dưới hình thức hoả tế nghi ngút hương thơm, làm thoả lòng Ta.3Ngươi sẽ nói với chúng: Đây là lễ hoả tế anh em sẽ dâng ĐỨC CHÚA.
29:38-46)
4một con vào lúc sáng, một con vào lúc chập tối. 5Ngoài ra ngươi sẽ dâng bốn lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với hai lít dầu ô-liu giã trong cối. 6Đó là lễ toàn thiêu thường tiến dâng trên núi Xi-nai, lễ vật nghi ngút hương thơm làm thoả lòng ĐỨC CHÚA; đó là lễ hoả tế dâng Người. 7Số lượng rượu tế dâng cùng với con chiên thứ nhất là hai lít; người ta sẽ đổ rượu nồng dâng ĐỨC CHÚA, trong nơi thánh. 8Còn con chiên thứ hai, ngươi sẽ dâng vào lúc chập tối, cùng với lễ phẩm và rượu tế như ban sáng: đó là lễ hoả tế, hương thơm dâng ĐỨC CHÚA, làm thoả lòng Người.B. Ngày sa-bát
9Ngày sa-bát, các ngươi sẽ dâng hai con chiên một tuổi, toàn vẹn, cùng với chín lít tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm, kèm theo rượu tế. 10Đó là lễ toàn thiêu của ngày sa-bát, riêng cho mỗi ngày sa-bát, không kể lễ toàn thiêu thường xuyên và lễ tưới rượu.C. Ngày sóc
11Hàng tháng, vào ngày sóc, các ngươi sẽ dâng lên ĐỨC CHÚA làm lễ toàn thiêu: hai con bò tơ, một con cừu đực, bảy chiên một tuổi, toàn vẹn. 12Khi dâng mỗi con bò, thì phải dâng mười ba lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm; khi dâng con cừu đực độc nhất, thì phải dâng chín lít tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm. 13Mỗi lần dâng một con chiên, thì phải dâng bốn lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm: đó là lễ toàn thiêu, là lễ vật nghi ngút hương thơm, làm thoả lòng ĐỨC CHÚA, là lễ hoả tế dâng Người. 14Số lượng rượu tế dâng cùng với con bò sẽ là bốn lít, cùng với con cừu đực là hai lít rưỡi, và cùng với con chiên là hai lít. Đó sẽ là lễ toàn thiêu phải dâng tháng này qua tháng nọ, tất cả mọi tháng trong năm. 15Không kể lễ toàn thiêu thường tiến, còn phải dâng ĐỨC CHÚA một con cừu đực làm lễ tạ tội, kèm theo lễ tưới rượu.
23:5-8)
16Ngày mười bốn tháng giêng, sẽ cử hành lễ Vượt Qua kính ĐỨC CHÚA, 17và ngày mười lăm tháng ấy sẽ là một ngày lễ. Trong bảy ngày, người ta sẽ ăn bánh không men. 18Ngày thứ nhất sẽ phải tập hợp để thờ phượng ĐỨC CHÚA, anh em không được làm một việc nặng nhọc nào. 19Anh em sẽ dâng hoả tế làm lễ toàn thiêu kính ĐỨC CHÚA: hai bò tơ, một cừu đực và bảy con chiên một tuổi; anh em phải chọn những con toàn vẹn. 20Phải dâng tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm: khi dâng mỗi con bò thì dâng mười ba lít rưỡi, khi dâng con cừu đực thì dâng chín lít; 21mỗi lần dâng một con chiên trong số bảy con, thì dâng bốn lít rưỡi. 22Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ vật tạ tội, để cử hành nghi lễ xá tội cho anh em. 23Anh em sẽ dâng những lễ vật đó, không kể lễ toàn thiêu ban sáng là một phần lễ toàn thiêu thường tiến. 24Anh em sẽ dâng như thế mỗi ngày trong suốt bảy ngày: đó là lương thực, là hoả tế, là lễ vật nghi ngút hương thơm, làm thoả lòng ĐỨC CHÚA, kèm theo lễ toàn thiêu thường tiến và lễ tưới rượu. 25Ngày thứ bảy, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng ĐỨC CHÚA, anh em không được làm một việc nặng nhọc nào.
23:15-22)
26Ngày hoa trái đầu mùa, khi dâng tiến ĐỨC CHÚA lễ phẩm mới vào lễ các Tuần, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng ĐỨC CHÚA, anh em không được làm một việc nặng nhọc nào. 27Anh em sẽ dâng lễ vật toàn thiêu nghi ngút hương thơm, làm thoả lòng ĐỨC CHÚA: hai con bò tơ, một con cừu đực, bảy con chiên một tuổi. 28Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng mỗi con bò thì dâng mười ba lít rưỡi, khi dâng con cừu đực độc nhất thì dâng chín lít, 29mỗi lần dâng một con chiên trong số bảy con, thì dâng bốn lít rưỡi. 30Cũng phải dâng một con dê đực để cử hành lễ xá tội cho anh em. 31Anh em sẽ dâng những lễ vật đó, không kể lễ toàn thiêu thường tiến và lễ phẩm của lễ đó; anh em phải chọn những con vật toàn vẹn; anh em sẽ dâng các lễ vật đó kèm theo rượu tế.
1Ngày mồng một tháng bảy, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng ĐỨC CHÚA; anh em không được làm một việc nặng nhọc nào: đối với anh em, đó sẽ là ngày Hò reo. 2Anh em sẽ dâng lễ toàn thiêu như hương thơm làm thoả lòng ĐỨC CHÚA: một bò tơ, một cừu đực, bảy con chiên một tuổi, toàn vẹn. 3Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng con bò, thì dâng mười ba lít rưỡi; khi dâng con cừu đực thì dâng chín lít, 4và khi dâng mỗi con chiên trong số bảy con, thì dâng bốn lít rưỡi. 5Anh em cũng phải dâng một con cừu đực làm lễ tạ tội, để cử hành lễ xá tội cho anh em. 6Ấy là không kể lễ toàn thiêu dâng mỗi tháng với lễ phẩm, lễ toàn thiêu thường tiến với lễ phẩm, và các lễ tưới rượu như luật định. Đó là những lễ toàn thiêu như hương thơm làm thoả lòng ĐỨC CHÚA, là lễ hoả tế kính Người.
23:26-32)
7Ngày mồng mười tháng bảy đó, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng ĐỨC CHÚA; anh em phải ăn chay hãm mình và không được làm một công việc tay chân nặng nhọc nào. 8Anh em sẽ dâng lên ĐỨC CHÚA lễ toàn thiêu như hương thơm làm thoả lòng Người: một bò tơ, một cừu đực, bảy con chiên một tuổi; anh em phải chọn những con toàn vẹn. 9Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng con bò, thì dâng mười ba lít rưỡi; khi dâng con cừu đực độc nhất, thì dâng chín lít; 10khi dâng mỗi con chiên trong số bảy con, thì dâng mỗi lần bốn lít rưỡi. 11Anh em sẽ phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ tạ tội dâng vào ngày xá tội, lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và các thứ rượu tế.
23:33-44)
12Ngày rằm tháng bảy, anh em phải tập hợp để thờ phượng ĐỨC CHÚA; anh em không được làm một việc nặng nhọc nào, và phải mừng lễ kính ĐỨC CHÚA trong bảy ngày. 13Anh em sẽ dâng lên ĐỨC CHÚA lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, như hương thơm làm thoả lòng Người: mười ba bò tơ, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, những con toàn vẹn. 14Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng mỗi con bò trong số mười ba con, thì dâng mười hai lít; khi dâng mỗi con cừu đực trong số hai con thì dâng tám lít; 15mỗi lần dâng một con chiên trong số mười bốn con, thì dâng bốn lít. 16Anh em cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, lễ phẩm và rượu tế.
17Ngày thứ hai thì dâng mười hai con bò tơ, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 18cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò tơ, cừu đực và chiên, như luật định. 19Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và các thứ rượu tế.
20Ngày thứ ba thì dâng mười một bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 21cùng với các lễ phẩm và rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như luật định. 22Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến cũng như lễ phẩm và rượu tế.
23Ngày thứ tư thì dâng mười bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 24cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như luật định. 25Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
26Ngày thứ năm thì dâng chín bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 27cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như luật định. 28Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
29Ngày thứ sáu thì dâng tám bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 30cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như luật định. 31Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
32Ngày thứ bảy thì dâng bảy bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 33cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như luật định. 34Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
35Ngày thứ tám, anh em sẽ có một cuộc họp long trọng, và không được làm một việc nặng nhọc nào. 36Anh em phải dâng lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, như hương thơm làm thoả lòng ĐỨC CHÚA: một bò, một cừu đực, bảy con chiên một tuổi, toàn vẹn, 37cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như luật định. 38Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
39Đó là những gì anh em phải làm để kính ĐỨC CHÚA trong các ngày lễ của anh em: các lễ toàn thiêu, lễ phẩm, lễ tưới rượu và lễ kỳ an, không kể những lễ vật anh em đã khấn hứa và những lễ vật tự nguyện."
Luật về các lời khấn hứa
2Ông Mô-sê nói với các thủ lãnh các chi tộc con cái Ít-ra-en: "Đây là điều ĐỨC CHÚA đã truyền:3Khi người đàn ông nào khấn hứa với ĐỨC CHÚA hay thề hứa tự buộc mình làm điều gì, thì người ấy sẽ không được lỗi lời mình: người ấy phải thực hiện những gì miệng đã nói ra.
4Khi một phụ nữ khấn hứa với ĐỨC CHÚA và tự buộc mình làm điều gì, lúc thiếu thời còn ở nhà cha, 5và nếu cha người ấy nghe nói về lời khấn hứa và điều người ấy tự buộc mình làm, mà ông vẫn im lặng, thì mọi lời khấn hứa của người ấy có hiệu lực, và mọi điều người ấy tự buộc mình làm cũng đều có hiệu lực. 6Nhưng nếu cha người ấy phản đối ngay trong ngày ông nghe biết được, thì mọi lời khấn hứa và mọi điều người ấy tự buộc mình làm, không có hiệu lực. ĐỨC CHÚA sẽ dung thứ cho người ấy, vì cha người ấy đã phản đối.
7Nếu người ấy đi lấy chồng, khi vẫn còn phải giữ những lời khấn hứa hay bị ràng buộc bởi một lời hứa thiếu suy nghĩ nào miệng người ấy đã thốt ra, 8và nếu người chồng nghe biết được mà vẫn im lặng trong ngày nghe biết được chuyện ấy, thì những lời khấn hứa của người phụ nữ ấy có hiệu lực, và những điều mà người ấy tự buộc mình làm cũng đều có hiệu lực. 9Nhưng nếu trong ngày nghe biết được, chồng người ấy phản đối, thì anh ta huỷ bỏ lời khấn hứa còn ràng buộc người vợ, và lời hứa thiếu suy nghĩ người vợ đã tự buộc mình phải giữ, ĐỨC CHÚA sẽ dung thứ cho người phụ nữ ấy.
10Lời khấn hứa của người đàn bà goá hoặc bị chồng bỏ, và mọi điều người ấy tự buộc mình làm, đều có hiệu lực đối với người ấy.
11Nếu tại chính nhà chồng, một phụ nữ đã khấn hứa hoặc lấy lời thề tự buộc mình làm điều gì, 12và nếu người chồng nghe biết được mà vẫn im lặng, không phản đối, thì mọi lời khấn hứa của người ấy có hiệu lực, và mọi điều người ấy tự buộc mình làm cũng đều có hịệu lực. 13Nhưng nếu người chồng huỷ bỏ ngay trong ngày nghe biết, thì mọi điều miệng người vợ thốt ra khi khấn hứa và tự buộc mình làm, sẽ không có hiệu lực: người chồng đã huỷ bỏ, thì ĐỨC CHÚA cũng dung thứ cho người phụ nữ ấy.
14Người chồng có thể chứng nhận là có hiệu lực, hay huỷ bỏ mọi lời người vợ khấn hứa và thề tự buộc ăn chay hãm mình. 15Nếu người chồng cứ im lặng cho đến hôm sau, thì đó là chứng nhận mọi lời khấn hứa của vợ hoặc mọi điều người vợ tự buộc mình làm có hiệu lực; người chồng chứng nhận là có hiệu lực, vì đã im lặng trong ngày nghe biết được. 16Nhưng nếu người chồng huỷ bỏ các điều ấy sau khi nghe biết, thì sẽ phải mang lấy tội của vợ."
17Đó là những quy luật ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê về mối tương quan giữa chồng và vợ, giữa cha và con gái lúc thiếu thời còn ở nhà cha.
IX. PHÂN CHIA CHIẾN LỢI PHẨM VÀ ĐẤT ĐAI
Thánh chiến chống Ma-đi-an
1ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 2"Hãy trả thù người Ma-đi-an cho con cái Ít-ra-en, rồi ngươi sẽ về sum họp với gia tiên ngươi."3Ông Mô-sê nói với dân: "Một số người trong anh em hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trận tiến đánh Ma-đi-an, để trả thù dân ấy cho ĐỨC CHÚA. 4Anh em sẽ sai người ra trận; cứ mỗi chi tộc trong các chi tộc Ít-ra-en, thì lấy một ngàn người."
5Trong số ngàn vạn người Ít-ra-en, người ta tuyển mộ mỗi chi tộc một ngàn người, tức là mười hai ngàn người được chuẩn bị sẵn sàng để ra trận. 6Ông Mô-sê sai họ ra trận, mỗi chi tộc một ngàn người; cùng ra trận với họ, có ông Pin-khát, con của tư tế E-la-da, tay cầm các đồ thánh và kèn thúc quân.
7Họ đã ra trận, tiến đánh Ma-đi-an, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê, và họ giết tất cả đàn ông con trai. 8Ngoài những người đã bị sát hại đó, họ còn giết các vua Ma-đi-an: E-vi, Re-kem, Xua, Khua, Re-va, là năm vua Ma-đi-an; rồi họ dùng gươm giết ông Bi-lơ-am, con ông Bơ-o. 9Con cái Ít-ra-en bắt phụ nữ Ma-đi-an và con cái chúng làm tù nhân; họ đã lấy mọi thú vật, mọi súc vật và mọi của cải chúng làm chiến lợi phẩm. 10Họ nổi lửa đốt tất cả các thành dân đó ở và mọi lều trại của chúng. 11Sau đó họ lấy mọi chiến lợi phẩm và tất cả những gì họ chiếm được, cả người lẫn thú vật, 12rồi đem các tù nhân và những gì đã chiếm được cũng như chiến lợi phẩm về trại, về vùng thảo nguyên Mô-áp gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô, để nộp cho ông Mô-sê, cho tư tế E-la-da và cộng đồng con cái Ít-ra-en.
Tàn sát phụ nữ và thanh tẩy chiến lợi phẩm
13Ông Mô-sê, tư tế E-la-da và mọi thủ lãnh của cộng đồng ra gặp họ ở ngoài trại. 14Ông Mô-sê nổi giận với các tướng lãnh, với các vị chỉ huy một ngàn quân và các vị chỉ huy một trăm quân đi trận trở về. 15Ông Mô-sê nói với họ: "Sao anh em lại để cho cả bọn đàn bà này sống? 16Chính bọn chúng đã nghe lời Bi-lơ-am, mà lôi cuốn con cái Ít-ra-en phạm tội bất trung với ĐỨC CHÚA trong vụ Pơ-o, nên tai hoạ đã giáng xuống cộng đồng của ĐỨC CHÚA. 17Vậy bây giờ, hãy giết hết các con trai, cũng như mọi phụ nữ đã biết đến việc vợ chồng, đã ăn ở với đàn ông. 18Còn mọi con gái nhỏ tuổi chưa ăn ở với đàn ông, thì hãy để cho chúng sống và thuộc về anh em. 19Về phần anh em, ai đã giết người, ai đã đụng tới người bị sát hại, hãy đóng quân ngoài trại trong bảy ngày. Anh em cũng như các tù nhân đều phải thanh tẩy mình vào ngày thứ ba và thứ bảy. 20Anh em phải thanh tẩy mọi quần áo, mọi đồ bằng da, mọi sản phẩm bằng lông dê và mọi đồ gỗ."21Tư tế E-la-da nói với các binh lính đã đi chiến đấu: "Đây là quy tắc pháp luật ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê: 22Chỉ có vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, chì, 23nghĩa là tất cả những gì chịu được lửa, anh em mới phải cho qua lửa để các vật ấy được sạch; tuy nhiên, các vật ấy phải được thanh tẩy bằng nước tẩy uế. Tất cả những gì không chịu được lửa, thì anh em phải nhúng vào nước.
24Anh em phải giặt quần áo ngày thứ bảy và anh em sẽ được sạch, rồi sau đó mới trở vào trại."
Phân chia chiến lợi phẩm
25ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 26"Cùng với tư tế E-la-da và các gia trưởng trong cộng đồng, ngươi hãy làm sổ kê khai những gì đã lấy được, đã bắt được, người cũng như súc vật. 27Rồi ngươi hãy chia những gì đã lấy được: một nửa cho các chiến sĩ đã ra trận và một nửa cho toàn thể cộng đồng. 28Sau đó, từ phần dành cho các chiến sĩ đã ra trận, ngươi sẽ trích ra một phần năm trăm số người, bò bê, lừa và chiên cừu, để làm thuế nộp cho ĐỨC CHÚA. 29Anh em sẽ lấy phần đó trong phần dành cho các chiến sĩ mà trao cho tư tế E-la-da, làm phần trích dâng ĐỨC CHÚA. 30Còn trong phần dành cho con cái Ít-ra-en, ngươi sẽ chọn lấy một phần năm mươi số người, bò bê, lừa, chiên dê, mọi thú vật, rồi trao cho các thầy Lê-vi có nhiệm vụ canh giữ Nhà Tạm của ĐỨC CHÚA."31Ông Mô-sê và tư tế E-la-da làm như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê. 32Những của đoạt được, những phần còn lại của chiến lợi phẩm mà các người tham chiến đã chiếm lấy, là 675.000 chiên dê, 3372.000 bò bê, 3461.000 con lừa, 35và nhân mạng, tức là những phụ nữ chưa ăn ở với đàn ông, tất cả là 32.000 người. 36Một nửa phần chiến lợi phẩm chia cho các người đã ra trận là: 3 37500 chiên dê, 37 trong số đó, thuế nộp cho ĐỨC CHÚA là 675 con; 3836.000 bò bê, trong số đó, thuế nộp cho ĐỨC CHÚA là 72 con; 3930.500 con lừa, trong số đó, thuế nộp cho ĐỨC CHÚA là 61 con; 4016.000 nhân mạng, trong số đó, thuế nộp cho ĐỨC CHÚA là 32 mạng. 41Ông Mô-sê đã trao cho tư tế E-la-da phần trích dâng ĐỨC CHÚA, như Người truyền cho ông Mô-sê.
42Còn nửa phần chiến lợi phẩm kia được chia cho con cái Ít-ra-en, ông Mô-sê đã tách ra khỏi phần chia cho các người đã ra trận; 43nửa phần đó thuộc về cộng đồng, gồm có 337.500 chiên dê, 4436.000 bò bê, 4530.500 con lừa, 4616.000 nhân mạng. 47Trong nửa phần đã chia cho con cái Ít-ra-en, ông Mô-sê chọn lấy một phần năm mươi số người và thú vật, rồi trao cho các thầy Lê-vi có nhiệm vụ canh giữ Nhà Tạm của ĐỨC CHÚA, như Người truyền cho ông Mô-sê.
Các lễ phẩm
48Bấy giờ, các tướng lãnh, các vị chỉ huy một ngàn quân và các vị chỉ huy một trăm quân đến gần ông ông Mô-sê 49và nói: "Các tôi tớ ngài đã kiểm lại số những người chiến đấu dưới quyền chúng tôi, và không thấy thiếu một người nào cả. 50Vậy chúng tôi đem những đồ bằng vàng mà mỗi người đã tìm thấy, làm lễ tiến dâng lên ĐỨC CHÚA, để cử hành lễ xá tội cho chúng tôi trước nhan ĐỨC CHÚA. Những đồ bằng vàng đó là vòng cổ tay, vòng cánh tay, nhẫn, khuyên tai và kiềng." 51Ông Mô-sê và tư tế E-la-da đã nhận vàng họ dâng và mọi đồ kim hoàn. 52Tổng cộng số vàng họ đã trích ra để dâng ĐỨC CHÚA là một trăm bảy mươi ký, được các chỉ huy một ngàn quân và các vị chỉ huy một trăm quân đem nộp.53Trước đó, ai nấy trong quân đội đều đoạt phần chiến lợi phẩm cho mình. 54Cho nên, ông Mô-sê và tư tế E-la-da đã nhận vàng của các vị chỉ huy một ngàn quân và một trăm quân, rồi mang đến Lều Hội Ngộ, làm kỷ vật tưởng nhớ con cái Ít-ra-en trước nhan ĐỨC CHÚA.
Phân chia vùng bên kia sông Gio-đan (Đnl 3:12-22)
1Con cái ông Rưu-vên và con cái ông Gát có nhiều đàn súc vật rất đông. Khi thấy rằng vùng Gia-de và vùng Ga-la-át là nơi thuận lợi cho việc chăn nuôi súc vật, 2họ đến thưa với ông Mô-sê, với tư tế E-la-da và các thủ lãnh cộng đồng: 3"Các thành A-ta-rốt, Đi-vôn, Gia-de, Nim-ra, Khét-bôn, En-a-lê, Xơ-vam, Nơ-vô và Bơ-ôn 4là vùng đất ĐỨC CHÚA đã đánh phạt trước cộng đồng Ít-ra-en, là vùng đất nuôi được súc vật. Mà các tôi tớ ngài lại có súc vật." 5Họ nói tiếp: "Nếu chúng tôi được đẹp lòng ngài, thì xin ban cho các tôi tớ ngài vùng đất này làm sở hữu. Xin đừng để chúng tôi phải đi qua sông Gio-đan."6Ông Mô-sê nói với con cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên: "Anh em của anh em phải ra chiến trường, mà anh em thì ở lại đây hay sao? 7Tại sao anh em làm cho con cái Ít-ra-en phải nản lòng không muốn đi qua bên xứ mà ĐỨC CHÚA đã ban cho họ? 8Cha ông anh em đã làm như thế, khi tôi sai họ đi từ Ca-đê Bác-nê-a để do thám xứ đó. 9Họ lên đến thung lũng Ét-côn; họ do thám xứ đó, rồi làm cho con cái Ít-ra-en nản lòng, để họ không vào xứ mà ĐỨC CHÚA đã ban cho họ. 10Nên trong ngày đó, cơn thịnh nộ của ĐỨC CHÚA bừng cháy; Người thề rằng: 11"Nếu ngày nào những người đã lên từ Ai-cập, hai mươi tuổi trở lên, thấy đất mà Ta đã thề ban cho Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. .., vì chúng đã không trọn tình đi theo Ta; 12chỉ trừ Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, người Cơ-nát, và Giô-suê, con ông Nun, vì họ đã trọn tình đi theo ĐỨC CHÚA. 13Cơn thịnh nộ của ĐỨC CHÚA bừng lên phạt Ít-ra-en, và Người đã bắt họ phải đi lang thang trong sa mạc bốn mươi năm, cho đến khi toàn thể thế hệ đã làm sự dữ trước mắt ĐỨC CHÚA đều chết hết. 14Này đây, hỡi nòi tội nhân, anh em thay thế cha ông mình mà nổi dậy, khiến cơn thịnh nộ của ĐỨC CHÚA đối với Ít-ra-en càng tăng lên! 15Nếu anh em quay lưng lại với Người, thì Người còn tiếp tục để Ít-ra-en lại trong sa mạc, và như thế, anh em sẽ làm cho tất cả dân này bị tiêu diệt."
16Họ tiến đến gần ông Mô-sê và nói: "Chúng tôi sẽ làm ở đây bãi quây cho chiên cừu của chúng tôi, và xây thành thị cho con em chúng tôi. 17Còn chúng tôi sẽ cầm khí giới ngay và dẫn đầu con cái Ít-ra-en, cho tới khi chúng tôi đưa họ đến nơi thuộc về họ; nhưng con em chúng tôi sẽ ở lại trong các thành kiên cố, để khỏi bị dân bản xứ tấn công. 18Chúng tôi sẽ không trở về nhà cho đến khi ai nấy trong dân Ít-ra-en đều được thừa hưởng phần gia nghiệp của mình. 19Quả thật, chúng tôi sẽ không chia phần gia nghiệp với họ bên kia sông Gio-đan hoặc xa hơn nữa, vì gia nghiệp bên này sông Gio-đan, ở phía đông, sẽ lọt về phần chúng tôi."
20Ông Mô-sê nói với họ: "Nếu anh em thực hiện điều đó, nếu anh em cầm khí giới để ra trận trước nhan ĐỨC CHÚA, 21nếu trong số anh em, tất cả những người được võ trang đi qua sông Gio-đan trước nhan ĐỨC CHÚA, (và ở lại đó) cho đến khi Người đuổi địch thù đi khuất mắt Người, 22và nếu anh em chỉ trở về sau khi xứ ấy quy hàng trước nhan ĐỨC CHÚA, thì anh em được coi như đã làm xong nhiệm vụ đối với ĐỨC CHÚA, với Ít-ra-en, và vùng đất này sẽ là sở hữu của anh em trước nhan ĐỨC CHÚA. 23Nhưng nếu anh em không làm như thế, thì anh em sẽ đắc tội với ĐỨC CHÚA; và anh em nên biết rằng chính anh em sẽ chuốc lấy tội đó cho mình. 24Anh em hãy xây thành cho con em và làm bãi quây cho chiên cừu, hãy thực hiện những gì miệng anh em đã nói."
25Con cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên thưa với ông Mô-sê: "Các tôi tớ ngài sẽ làm như lời ngài truyền. 26Vợ con, súc vật và mọi thú vật của chúng tôi sẽ ở đây, trong các thành Ga-la-át; 27nhưng các tôi tớ ngài, mọi kẻ đã được võ trang để ra trận, sẽ đi qua trước nhan ĐỨC CHÚA để chiến đấu, theo lời ngài đã nói."
28Ông Mô-sê đã ban mệnh lệnh liên quan đến họ cho tư tế E-la-da, cho ông Giô-suê, con ông Nun, và cho những người đứng đầu các gia tộc của các chi tộc con cái Ít-ra-en. 29Ông Mô-sê nói với họ: "Nếu con cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên, mọi kẻ đã được võ trang để chiến đấu, cùng với anh em đi qua sông Gio-đan trước nhan ĐỨC CHÚA, và nếu anh em chinh phục được vùng đất đó, thì anh em sẽ cho họ đất Ga-la-át làm sở hữu. 30Nhưng nếu họ không chịu mang khí giới đi qua sông với anh em, thì họ sẽ phải nhận một phần đất làm sở hữu giữa anh em, trong xứ Ca-na-an."
31Con cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên thưa: "Điều ĐỨC CHÚA đã phán với các tôi tớ ngài, chúng tôi sẽ làm; 32chính chúng tôi sẽ cầm khí giới đi qua xứ Ca-na-an trước nhan ĐỨC CHÚA; và xin ngài cho chúng tôi được chiếm hữu phần đất bên này sông Gio-đan làm gia nghiệp." 33Ông Mô-sê ban cho họ -nghĩa là cho con cái ông Gát, con cái ông Rưu-vên và một nửa chi tộc Mơ-na-se, con ông Giu-se- vương quốc của Xi-khôn, vua E-mô-ri, vương quốc của Ốc, vua Ba-san; đó là vùng đất gồm các thành cùng với lãnh thổ của các thành ấy, thêm vào đó các thành của vùng đất chung quanh.
34Con cái ông Gát đã xây Đi-vôn, A-ta-rốt, A-rô-e, 35A-rốt Sô-phan, Gia-de, Gioóc-bô-ha, 36Bết Nim-ra, Bết Ha-ran, là những thành kiên cố; họ cũng đã làm bãi quây cho chiên cừu.
37Con cái ông Rưu-vên cũng đã xây Khét-bôn, En-a-lê, Kia-gia-tha-gim, 38Nơ-vô, Ba-an Mơ-ôn (các thành này đã đổi tên) và Xíp-ma. Họ đặt tên cho các thành họ đã xây.
39Con cái ông Ma-khia, con ông Mơ-na-se, đi tới xứ Ga-la-át; họ chiếm xứ đó và đuổi người E-mô-ri đang ở đấy. 40Ông Mô-sê cho ông Ma-khia là con ông Mơ-na-se, xứ Ga-la-át, và ông Ma-khia định cư tại đó. 41Ông Gia-ia, con ông Mơ-na-se, đi chiếm các trại của họ và đặt tên là trại của Gia-ia. 42Nô-vác đi chiếm Cơ-nát cùng các vùng phụ cận; ông lấy tên mình là Nô-vác mà đặt cho chỗ đó.
Các chặng đường của cuộc xuất hành
1Đây là những chặng đường con cái Ít-ra-en đã qua, khi họ ra khỏi đất Ai-cập, theo đoàn quân của họ, dưới sự hướng dẫn của ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 2Ông Mô-sê ghi lại những điểm khởi hành cho từng chặng đường, theo lệnh của ĐỨC CHÚA. Đây là những chặng đường của họ, dựa theo các điểm khởi hành.3Họ rời Ram-xết lên đường vào tháng giêng, ngày rằm tháng giêng. Hôm sau lễ Vượt Qua, con cái Ít-ra-en ra đi ngang nhiên trước mắt toàn dân Ai-cập, 4trong khi dân Ai-cập lo chôn cất người nhà của chúng đã bị ĐỨC CHÚA đánh phạt, nghĩa là mọi con trai đầu lòng. ĐỨC CHÚA đã trừng phạt các thần của chúng.
5Con cái Ít-ra-en lên đường rời Ram-xết và đóng trại ở Xúc-cốt. 6Họ lên đường rời Xúc-cốt và đóng trại ở Ê-tham, ven sa mạc. 7Họ lên đường rời Ê-tham, nhưng quay trở lại phía Pi Ha-khi-rốt, đối diện với Ba-an Xơ-phôn, rồi đóng trại đằng trước Mích-đôn. 8Họ lên đường rời Pi Ha-khi-rốt, đi qua biển mà vào sa mạc; họ đi ba ngày đường trong sa mạc Ê-tham, rồi đóng trại ở Ma-ra. 9Họ lên đường rời Ma-la tới Ê-lim. Ở Ê-lim, có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là. Và họ đóng trại ở đó. 10Họ lên đường rời Ê-lim và đóng trại gần Biển Sậy. 11Họ lên đường rời Biển Sậy và đóng trại gần sa mạc Xin. 12Họ lên đường rời sa mạc Xin và đóng trại ở Đốp-ca. 13Họ lên đường rời Đốp-ca và đóng trại ở A-lút. 14Họ lên đường rời A-lút và đóng trại ở Rơ-phi-đim; tại đó không có nước cho dân uống. 15Họ lên đường rời Rơ-phi-đim và đóng trại trong sa mạc Xi-nai. 16Họ lên đường rời sa mạc Xi-nai và đóng trại ở Kíp-rốt Ha Ta-a-va. 17Họ lên đường rời Kíp-rốt Ha Ta-a-va và đóng trại ở Kha-xê-rốt. 18Họ lên đường rời Kha-xê-rốt và đóng trại ở Rít-ma. 19Họ lên đường rời Rít-ma và đóng trại ở Rim-môn Pe-rét. 20Họ lên đường rời Rim-môn Pe-rét và đóng trại ở Líp-na. 21Họ lên đường rời Líp-na và đóng trại ở Rít-xa. 22Họ lên đường rời Rít-xa và đóng trại ở Cơ-hê-la-tha. 23Họ lên đường rời Cơ-hê-la-tha và đóng trại ở núi Se-phe. 24Họ lên đường rời núi Se-phe và đóng trại ở Kha-ra-đa. 25Họ lên đường rời Kha-ra-đa và đóng trại ở Mác-hê-lốt. 26Họ lên đường rời Mác-hê-lốt và đóng trại ở Ta-khát. 27Họ lên đường rời Ta-khát và đóng trại ở Te-rác. 28Họ lên đường rời Te-rác và đóng trại ở Mít-ca. 29Họ lên đường rời Mít-ca và đóng trại ở Khát-mô-na. 30Họ lên đường rời Khát-mô-na và đóng trại ở Mô-xê-rốt. 31Họ lên đường rời Mô-xê-rốt và đóng trại ở Bơ-nê Gia-a-can. 32Họ lên đường rời Bơ-nê Gia-a-can và đóng trại ở Kho Ha Ghít-gát. 33Họ lên đường rời Kho Ha Ghít-gát và đóng trại ở Giót-va-tha. 34Họ lên đường rời Giót-va-tha và đóng trại ở Áp-rô-na. 35Họ lên đường rời Áp-rô-na và đóng trại ở E-xi-ôn Ghe-ve. 36Họ lên đường rời E-xi-ôn Ghe-ve và đóng trại trong sa mạc Xin, nghĩa là Ca-đê. 37Họ lên đường rời Ca-đê và đóng trại ở núi Ho, cuối xứ Ê-đôm. 38Tư tế A-ha-ron lên núi Ho theo lệnh của ĐỨC CHÚA và qua đời ở đó, vào năm thứ bốn mươi sau khi con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, ngày mồng một tháng năm. 39Ông A-ha-ron thọ được một trăm hai mươi ba tuổi, -khi ông qua đời ở núi Ho. 40Bấy giờ vua A-rát, người Ca-na-an, cư ngụ tại Ne-ghép trong xứ Ca-na-an, nghe tin con cái Ít-ra-en đến. 41Họ lên đường rời núi Ho và đóng trại ở Xan-mô-na. 42Họ lên đường rời Xan-mô-na và đóng trại ở Pu-nôn. 43Họ lên đường rời Pu-nôn và đóng trại ở Ô-vốt. 44Họ lên đường rời Ô-vốt và đóng trại ở I-giê Ha A-va-rim, giáp giới với Mô-áp. 45Họ lên đường rời I-gim và đóng trại ở Đi-vôn Gát. 46Họ lên đường rời Đi-vôn Gát và đóng trại ở An-môn Đíp-la-tha-gim. 47Họ lên đường rời An-môn Đíp-la-tha-gim và đóng trại ở dãy núi A-va-rim, đối diện với Nơ-vô. 48Họ lên đường rời dãy núi A-va-rim và đóng trại ở vùng thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô. 49Họ đóng trại gần sông Gio-đan, từ Bết Ha Giơ-si-mốt đến A-vên Ha Sít-tim, trong vùng thảo nguyên Mô-áp.
Phân chia đất Ca-na-an. Mệnh lệnh của Thiên Chúa.
50ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê trong vùng thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô: 51"Hãy nói với con cái Ít-ra-en rằng:52các ngươi sẽ đuổi mọi dân cư trong xứ cho khuất mắt các ngươi, và phá huỷ tất cả các hình ảnh, các tượng đúc của chúng, các ngươi sẽ tiêu huỷ mọi nơi cao của chúng. 53Các ngươi sẽ chiếm đất ấy và lập cư ở đó, vì Ta đã cho các ngươi đất ấy để chiếm hữu. 54Các ngươi sẽ bắt thăm để chia nhau đất ấy làm gia nghiệp, tuỳ theo các thị tộc của các ngươi: thị tộc nào đông người, các ngươi sẽ cho một phần đất lớn làm gia nghiệp; thị tộc nào ít người hơn, các ngươi sẽ cho một phần đất nhỏ hơn làm gia nghiệp. Ai bắt thăm được nơi nào, thì sẽ ở tại đó. Các ngươi sẽ tính theo các chi tộc mà chia phần gia nghiệp. 55Nếu các ngươi không đuổi các dân cư trong xứ cho khuất mắt, thì những kẻ các ngươi để sót lại sẽ nên như gai chọc mắt, như mũi nhọn đâm sườn; chúng sẽ quấy rối các ngươi trên đất các ngươi đến ở. 56Và bấy giờ, Ta sẽ đối xử với các ngươi như Ta đã định đối xử với chúng."
Biên giới xứ Ca-na-an
1ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 2"Hãy ra lệnh cho con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi anh em vào đất Ca-na-an, thì phần đất rơi vào tay anh em làm gia nghiệp, chính là đất Ca-na-an với các biên giới như sau:3Phía nam, đất của anh em sẽ bắt đầu từ sa mạc Xin, giáp giới Ê-đôm. Ranh giới phía nam sẽ khởi sự từ cuối Biển Muối, ở mạn đông. 4Rồi ranh giới đó sẽ vòng xuống phía nam, lên giốc Ác-ráp-bim, đi qua Xin, đến phía nam Ca-đê Bác-nê-a, rồi lại tiến về Kha-xa Át-đa và đi qua Át-môn; 5sau đó, từ Át-môn, ranh giới vòng xuống Suối Ai-cập để đi ra Biển.
6Phía tây, anh em sẽ có Biển Lớn làm ranh giới. Đó sẽ là ranh giới phía tây của anh em.
7Và đây là ranh giới phía bắc: từ Biển Lớn, anh em sẽ vạch một đường lên núi Ho; 8rồi từ núi Ho, anh em sẽ vạch một đường đến Cửa Ải Kha-mát. Ranh giới sẽ đi đến Xơ-đát, 9rồi chạy tiếp đến Díp-rôn và đi tới Kha-xa Ê-nan. Đó sẽ là ranh giới phía bắc của anh em.
10Sau đó, anh em sẽ vạch một đường làm ranh giới phía đông từ Kha-xa Ê-nan đến Sơ-pham. 11Từ Sơ-pham, ranh giới đó sẽ đi xuống Ríp-la, ở phía đông A-gin. Đi xuống nữa, ranh giới đó sẽ tiếp giáp với các đồi phía đông biển hồ Kin-ne-rét; 12rồi đi xuống theo dọc sông Gio-đan và đi tới Biển Muối. Đó sẽ là đất của anh em với các ranh giới chung quanh."
13Ông Mô-sê ra lệnh cho con cái Ít-ra-en: "Đó là đất mà anh em sẽ bắt thăm để chia nhau làm gia nghiệp, đất mà ĐỨC CHÚA đã truyền phải ban cho chín chi tộc và một nửa chi tộc.
14Vì chi tộc con cái ông Rưu-vên, theo số các gia tộc của họ, chi tộc con cái Gát, theo số các gia tộc của họ đã lãnh phần gia nghiệp của họ rồi, và nửa chi tộc Mơ-na-se cũng đã lãnh phần gia nghiệp của họ. 15Hai chi tộc và một nửa chi tộc này đã lãnh phần gia nghiệp của họ bên kia sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô, phía đông, phía mặt trời mọc."
Việc chia đất
16ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 17"Đây là tên những người sẽ chia đất cho các ngươi làm gia nghiệp; tư tế E-la-da và Giô-suê, con của Nun. 18Các ngươi sẽ lấy thêm một đầu mục, mỗi chi tộc một người, để phụ trách việc chia đất làm gia nghiệp. 19Đây là tên những người đó:Chi tộc Giu-đa có Ca-lếp, con của Giơ-phun-ne;20chi tộc con cái Si-mê-ôn, có Sơ-mu-ên, con của Am-mi-hút;
21chi tộc Ben-gia-min có Ê-li-đát, con của Kít-lôn;
22chi tộc con cái Đan, có đầu mục Búc-ki, con của Gioóc-li;
23về con cái Giu-se, chi tộc con cái Mơ-na-se, có đầu mục Khan-ni-ên, con của Ê-phốt;
24chi tộc con cái Ép-ra-im, có đầu mục Cơ-mu-ên, con của Síp-tan;
25chi tộc con cái Dơ-vu-lun, có đầu mục Ê-li-xa-phan, con của Pác-nác;
26chi tộc con cái Ít-xa-kha, có đầu mục Pan-ti-ên, con của Át-dan;
27chi tộc con cái A-se, có đầu mục A-khi-hút, con của Sơ-lô-mi;
28chi tộc con cái Náp-ta-li, có đầu mục Pơ-đa-ên, con của Am-mi-hút."
29Đó là những người ĐỨC CHÚA đã truyền lệnh phải chia cho con cái Ít-ra-en các phần gia nghiệp trong đất Ca-na-an.
Phần dành cho các thầy Lê-vi
1ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê trong vùng thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô: 2"Hãy ra lệnh cho con cái Ít-ra-en phải nhường một số thành, lấy trong gia nghiệp thuộc quyền sở hữu của chúng, cho các người Lê-vi ở; các ngươi cũng sẽ nhường cho các người Lê-vi những đồng cỏ chung quanh các thành ấy. 3Các thành ấy sẽ là nơi chúng ở; còn các đồng cỏ thì dành cho mọi thú vật, súc vật và các vật dụng của chúng. 4Đồng cỏ chung quanh những thành các ngươi nhường cho người Lê-vi, sẽ rộng năm trăm thước kể từ tường thành trở ra.5Bên ngoài thành, các ngươi sẽ đo một ngàn thước phía đông, một ngàn thước phía nam, một ngàn thước phía tây, một ngàn thước phía bắc, còn thành thì ở giữa; đó sẽ là đồng cỏ thuộc các thành của chúng. 6Những thành các ngươi nhường cho người Lê-vi sẽ là sáu thành trú ẩn: các ngươi để cho kẻ sát nhân đến đó nương náu; ngoài ra, các ngươi sẽ nhường thêm bốn mươi hai thành nữa. 7Tổng số các thành nhường cho người Lê-vi sẽ là bốn mươi tám, cùng với đồng cỏ thuộc các thành ấy. 8Các thành được nhường là những thành lấy trong số các thành thuộc quyền sở hữu của con cái Ít-ra-en: chi tộc nào có nhiều, các ngươi sẽ lấy nhiều; chi tộc nào có ít, các ngươi sẽ lấy ít; mỗi chi tộc sẽ nhường một số thành của mình cho người Lê-vi, tuỳ theo phần gia nghiệp mình đã nhận được."
Các thành trú ẩn (Đnl 9:1-13; Gr 20:1-9)
9ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: 10"Hãy bảo con cái Ít-ra-en rằng: Khi đi qua sông Gio-đan vào đất Ca-na-an, 11các ngươi sẽ chọn một số thành làm thành trú ẩn cho các ngươi; kẻ nào đã vô ý làm thiệt mạng ai, thì sẽ có thể đến đó nương náu. 12Các thành ấy sẽ là nơi các ngươi trú ẩn để tránh người đòi nợ máu, và như thế kẻ sát nhân sẽ không phải chết khi chưa được xét xử trước mặt cộng đồng. 13Trong số những thành các ngươi nhường sẽ có sáu thành trú ẩn cho các ngươi: 14ba thành các ngươi nhường bên kia sông Gio-đan, và ba thành các ngươi nhường trên đất Ca-na-an, sẽ là những thành trú ẩn. 15Sáu thành đó sẽ là nơi trú ẩn cho con cái Ít-ra-en, cũng như cho khách ngoại kiều và người trú ngụ giữa các ngươi. Kẻ nào đã vô ý làm thiệt mạng ai, thì sẽ có thể đến đó nương náu.16Ai dùng đồ sắt mà đánh người khác chết, thì là kẻ sát nhân. Kẻ sát nhân sẽ phải bị xử tử. 17Ai cầm trong tay một hòn đá chết người mà đánh người khác chết, thì là kẻ sát nhân. Kẻ sát nhân sẽ phải bị xử tử. 18Ai cầm trong tay đồ vật bằng gỗ có thể giết người mà đánh người khác chết, thì là kẻ sát nhân. Kẻ sát nhân sẽ phải bị xử tử. 19Chính người đòi nợ máu sẽ giết kẻ sát nhân; khi gặp tên sát nhân, người đó sẽ giết nó.
20Nếu ai vì căm hờn mà xô ngã người khác, hay cố tình ném vật gì trúng người ấy, làm cho người ấy chết, 21hoặc ai vì thù ghét mà giơ tay đánh người ấy chết, kẻ đã đánh sẽ bị xử tử: đó là một kẻ sát nhân. Người đòi nợ máu sẽ giết kẻ sát nhân, khi gặp nó. 22Nhưng nếu vì ngẫu nhiên, chứ không phải vì thù ghét, ai xô ngã người khác, hay vô ý ném vật gì trúng người ấy, 23hoặc ai vì không thấy mà đánh rơi trúng người ấy một hòn đá chết người, làm cho người ấy chết, tuy chẳng thù ghét cũng chẳng muốn hại người ấy, 24cộng đồng sẽ chiếu theo các luật đó mà phân xử đôi bên: kẻ đã đánh và người đòi nợ máu. 25Cộng đồng sẽ gỡ kẻ sát nhân khỏi tay người đòi nợ máu, rồi đưa nó trở về thành trú ẩn là nơi nó đã tới nương náu. Nó sẽ ở lại đó cho đến khi thượng tế, là người đã được xức dầu thánh, qua đời. 26Nhưng nếu kẻ sát nhân ra khỏi ranh giới thành trú ẩn là nơi nó đã tới nương náu, 27và người đòi nợ máu gặp thấy nó bên ngoài ranh giới thành nó trú ẩn, và giết nó, thì không mắc tội đổ máu. 28Vì kẻ sát nhân phải ở lại trong thành nó trú ẩn cho đến khi thượng tế qua đời; chỉ khi nào thượng tế qua đời, kẻ sát nhân mới được trở về đất sở hữu của nó. 29Đó sẽ là những quy tắc pháp lý các ngươi phải tuân giữ qua mọi thế hệ, tại bất cứ nơi nào các ngươi ở.
30Trong mọi trường hợp đánh chết người, người ta sẽ dựa vào lời khai của các chứng nhân mà xử tử kẻ sát nhân. Nhưng lời khai của một chứng nhân duy nhất sẽ không thể làm cho ai bị kết án tử hình. 31Các ngươi sẽ không được nhận tiền chuộc mạng một kẻ sát nhân can án chết: nó sẽ phải bị xử tử. 32Các ngươi cũng không được nhận tiền chuộc cho phép kẻ đã trốn vào thành trú ẩn được về ở xứ sở, trước khi thượng tế qua đời. 33Các ngươi sẽ không được làm nhiễm uế đất các ngươi ở, vì chính máu làm nhiễm uế đất ấy, và không có gì có thể tẩy rửa đất ấy khỏi máu đã đổ ra tại đó, ngoài máu của người đã làm đổ máu. 34(Các) ngươi sẽ không gây ô nhục cho đất (các) ngươi ở, cũng là nơi Ta ngự; vì Ta là ĐỨC CHÚA, Ta ngự giữa con cái Ít-ra-en."
Gia nghiệp của phụ nữ có chồng
1Khi đó, các gia trưởng của thị tộc con cái ông Ga-la-át, con ông Ma-khia, cháu ông Mơ-na-se, trong số các thị tộc con cái ông Giu-se, tiến đến và lên tiếng trước mặt ông Mô-sê và các đầu mục cũng là gia trưởng của con cái Ít-ra-en 2mà rằng: "ĐỨC CHÚA đã truyền lệnh cho đức ông phải dùng lối bắt thăm mà chia đất cho con cái Ít-ra-en làm gia nghiệp. Đức ông cũng nhận được lệnh của ĐỨC CHÚA bắt phải ban gia nghiệp của ông Xơ-lóp-khát, người anh em của chúng tôi, cho các con gái ông ấy. 3Mà nếu các cô này lấy chồng thuộc các chi tộc con cái Ít-ra-en, gia nghiệp của họ sẽ bị xén khỏi gia nghiệp cha ông chúng tôi. Gia nghiệp của họ sẽ nhập vào gia nghiệp của chi tộc mà họ sẽ là thành viên, và như vậy phần gia nghiệp của chúng tôi sẽ bị xén bớt. 4Đến lúc con cái Ít-ra-en mừng năm toàn xá, gia nghiệp của họ sẽ nhập vào gia nghiệp của chi tộc mà họ là thành viên, và sẽ bị xén khỏi gia nghiệp của chi tộc cha ông chúng tôi."5Theo lệnh của ĐỨC CHÚA, ông Mô-sê truyền cho con cái Ít-ra-en rằng: "Chi tộc con cái ông Giu-se nói đúng. 6Đây là điều ĐỨC CHÚA đã truyền về các con gái ông Xơ-lóp-khát: chúng sẽ lấy người vừa mắt chúng, nhưng chỉ được lấy người thuộc thị tộc trong chi tộc của cha chúng. 7Như thế, gia nghiệp con cái Ít-ra-en sẽ không chuyển từ chi tộc này sang chi tộc khác, nhưng mỗi người con cái Ít-ra-en sẽ gắn bó với gia nghiệp của chi tộc cha ông mình. 8Trong các chi tộc con cái Ít-ra-en, người con gái nào hưởng gia nghiệp, thì phải lấy chồng thuộc một trong các thị tộc của chi tộc cha mình, để mỗi người trong con cái Ít-ra-en giữ được gia nghiệp cha ông mình. 9Không gia nghiệp nào được chuyển từ chi tộc này sang chi tộc khác, nhưng mỗi chi tộc con cái Ít-ra-en sẽ gắn bó với gia nghiệp của mình."
10Các con gái ông Xơ-lóp-khát làm đúng như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê: 11Mác-la, Tia-xa, Khoóc-la, Min-ca và Nô-va, là những con gái ông Xơ-lóp-khát, lấy các con trai của chú bác. 12Họ đã lấy người thuộc các thị tộc con cái ông Mơ-na-se, con ông Giu-se, và như thế gia nghiệp của họ vẫn thuộc về thị tộc trong chi tộc cha họ.